Bảy mươi lăm năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người: Thành tựu và thách thức
TCCS - Ngày 10-12-1948, tại Thủ đô Paris (Pháp), Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người. Trải qua 75 năm với bao thăng trầm, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người vẫn là văn kiện có ý nghĩa nhân văn cao cả, đã và đang là mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân loại. Là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn coi bảo đảm quyền con người là bản chất, mục đích của chế độ xã hội chủ nghĩa và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Văn kiện quốc tế đầu tiên ghi nhận một cách tương đối toàn diện quyền con người
Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do chủ nghĩa phát-xít gây ra đã làm hàng trăm triệu người trên thế giới thiệt mạng, bị mất người thân, nhà cửa, phương tiện sinh sống, buộc phải di cư, tị nạn… Riêng ở Việt Nam, có tới hơn 2 triệu người thiệt mạng. Những tổn thất to lớn mà cuộc chiến tranh này gây ra đã thức tỉnh nhân loại về một nhiệm vụ chung cấp bách, đó là bảo vệ hòa bình, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và quyền con người. Chính vì vậy, ngay sau khi Liên hợp quốc được thành lập (ngày 24-10-1945), công việc soạn thảo một văn kiện về quyền con người đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc khẩn trương triển khai, giao Ủy ban quyền con người trực thuộc Liên hợp quốc thực hiện. Sau hai năm (1947 - 1948) làm việc tích cực của các chuyên gia hàng đầu Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (gọi tắt là Tuyên ngôn) chính thức ra đời vào ngày 10-12-1948.
Được xem như văn kiện đầu tiên khẳng định một cách tương đối toàn diện về quyền con người, một tiêu chuẩn và mục tiêu chung cho tất cả quốc gia, dân tộc hướng tới, Tuyên ngôn, một mặt, chọn lọc kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại được ghi nhận ở một số văn kiện lịch sử mang tính bản lề liên quan đến quyền con người, như Đại Hiến chương về quyền tự do của Anh năm 1215, Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789; mặt khác, ghi nhận một số quyền là những vấn đề mang tính thách thức đối với các hệ thống xã hội vào thời điểm Tuyên ngôn ra đời, như quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo, tự do hội họp, lập hội; quyền được tham gia quản lý đất nước...
Tuyên ngôn bao gồm phần lời nói đầu và phần nội dung với 30 Điều. Phần lời nói đầu của Tuyên ngôn đề cập đến những tư tưởng tiến bộ của nhân loại và những vấn đề cấp bách mà cộng đồng quốc tế phải ứng phó, bao gồm: 1- Tự do, công lý và hòa bình; 2- Nhu cầu về quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và “thoát khỏi” sự khốn cùng; 3- Quyền con người phải được một chế độ pháp trị bảo đảm; 4- Dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn “xác nhận lại” và cam kết tôn trọng, thực thi trên toàn cầu những quyền và tự do căn bản ghi trong Tuyên ngôn.
Trong phần nội dung, 30 Điều của Tuyên ngôn (1) ghi nhận khá đầy đủ các quyền cơ bản của con người, từ quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đến quyền được hưởng an sinh xã hội, tiếp cận các dịch vụ công, quyền làm việc, nghỉ ngơi, quyền học tập, quyền được hưởng sự chăm sóc đặc biệt đối với bà mẹ và trẻ em… Bên cạnh đó, Tuyên ngôn còn khẳng định mọi người đều phải có nghĩa vụ đối với cộng đồng, tôn trọng thích đáng các quyền và tự do của người khác, đáp ứng những yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung; cấm lạm dụng các quyền và tự do vào mục đích trái với những mục tiêu, tôn chỉ của Hiến chương Liên hợp quốc.
Những nội dung của Tuyên ngôn đã tạo nền tảng quan trọng cho sự ra đời của các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người sau này, như: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD, năm 1965); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, năm 1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, năm 1966); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (CEDAW, năm 1979); Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (năm 1984); Công ước về quyền trẻ em (năm 1989), Công ước về bảo vệ quyền của tất cả người lao động di trú và các thành viên gia đình (năm 1990), Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích (năm 2006), Công ước về quyền của người khuyết tật (năm 2007).
Xét về tính chất, quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và thể hiện cụ thể tại các văn kiện quốc tế có bốn đặc tính cơ bản. Một là, tính phổ quát. Lần đầu tiên đặc tính này được khẳng định tại Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, đồng thời được đề cập trong nhiều công ước, tuyên bố, nghị quyết quốc tế về quyền con người. Đó là mọi người sinh ra đều được hưởng các quyền con người. Hai là, tính không thể phân chia và phụ thuộc lẫn nhau. Các quyền con người đều có giá trị quan trọng như nhau và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau; sự tiến bộ trong bảo đảm một quyền cũng dẫn tới những tác động tích cực trực tiếp hoặc gián tiếp đến bảo đảm các quyền khác; ngược lại, sự vi phạm một quyền cũng trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ba là, tính bình đẳng và không phân biệt đối xử. Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền; mọi người đều được hưởng tất cả quyền con người, không bị phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do gì, từ vấn đề chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, đến độ tuổi, thành phần xuất thân… Bốn là, quyền phải đi cùng với nghĩa vụ. Mỗi cá nhân đều được hưởng các quyền con người, nhưng cũng có nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền con người của người khác.
Xét về phân loại, cùng với sự phát triển của các văn kiện quốc tế về quyền con người, hiện nay, cộng đồng quốc tế phân loại các quyền con người theo nhiều tiêu chí khác nhau, nhưng một trong những cách phân loại thông dụng nhất là theo lĩnh vực của đời sống. Do vậy, quyền con người bao gồm hai nhóm chính: quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế - xã hội, văn hóa. Cách phân loại này được thể hiện ở Công ước về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966) và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966). Trong đó, nhóm quyền dân sự, chính trị, bao gồm quyền sống, quyền tự do và an toàn nhân thân, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền được bảo vệ sự riêng tư; quyền tham gia chính trị, quyền bầu cử, quyền tự do hội họp, quyền tự do lập hội… Nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, bao gồm quyền lao động, quyền được hưởng mức sống thích đáng; quyền được hưởng an toàn xã hội, quyền về gia đình, hôn nhân không bị cưỡng bức; quyền giáo dục, quyền y tế, quyền văn hóa… Các quyền này đòi hỏi có sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, có thể kể đến quyền liên kết với các vấn đề toàn cầu và gắn với sự sống còn của nhân loại, như quyền hòa bình, quyền môi trường, quyền phát triển. Những quyền này đòi hỏi có sự hợp tác và trách nhiệm của cả cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, sự phân chia các quyền con người theo tiêu chí lĩnh vực chỉ mang tính tương đối do một số quyền có sự đan xen giữa tính chất dân sự và chính trị, chẳng hạn như quyền tự do biểu đạt, quyền tự do hội họp một cách hòa bình, quyền tự do lập hội. Hơn nữa, quyền con người với tính chất không thể phân chia và phụ thuộc lẫn nhau, khó có thể phân cấp một cách rạch ròi, đòi hỏi việc bảo đảm quyền con người được triển khai đồng bộ và coi trọng như nhau. Việc phân loại quyền con người chỉ mang tính lý thuyết, chủ yếu nhằm mục đích theo dõi, phân tích, tìm hiểu đặc trưng cơ bản, qua đó đề ra những biện pháp chung và biện pháp riêng để thực thi thích hợp.
Sau 75 năm kể từ khi ra đời, các quy định của Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá trị. Đó là văn kiện chính trị đặc biệt, được tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ phát triển, bản sắc văn hóa đều thừa nhận và được xem là giá trị chung của nhân loại, góp phần thúc đẩy các quốc gia, dân tộc xây dựng, thực thi quyền con người, làm cho thế giới phát triển, tiến bộ hơn. Hiện nay, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã được dịch sang 555 thứ tiếng và đang tiếp tục được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhằm tăng cường phổ biến, thúc đẩy, bảo vệ các quyền con người.
Những thành tựu và một số vấn đề đặt ra hiện nay về quyền con người
Thứ nhất, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện khung khổ luật pháp quốc tế cũng như pháp luật quốc gia, các cơ chế về quyền con người (2), cụ thể hóa và phát triển nội hàm của các quyền con người trên nhiều lĩnh vực nhằm bảo vệ các quyền cụ thể của con người nói chung và quyền của các nhóm người dễ tổn thương, như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người di cư,…
Ở cấp độ quốc tế, hàng loạt điều ước quốc tế về quyền con người đã được xây dựng, tạo khung khổ pháp lý quốc tế cho việc thực hiện các quyền con người trong mọi lĩnh vực trên toàn cầu. Luật Nhân quyền quốc tế tiếp tục phát triển và mở rộng nhằm giải quyết các vấn đề nhân quyền mới nổi, như quyền của người cao tuổi, quyền được biết sự thật, quyền môi trường trong sạch, nước, vệ sinh và thực phẩm, quyền tiếp cận công bằng với vắc-xin, quyền được tiêm chủng...
Ở cấp độ khu vực, bên cạnh Công ước châu Âu về nhân quyền năm 1950, Công ước châu Mỹ về nhân quyền năm 1969, Hiến chương châu Phi về nhân quyền và quyền các dân tộc năm 1981, Tuyên bố Nhân quyền ASEAN ra đời vào ngày 18-11-2012(3) là văn kiện chính trị quan trọng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong tiến trình thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người của các nước ASEAN, được các nước ASEAN không ngừng nỗ lực thực thi và đạt nhiều tiến bộ, góp phần xây dựng Cộng đồng ASEAN phát triển bền vững, hướng tới người dân, lấy người dân làm trung tâm.
Tuyên ngôn đã khơi dậy các phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, xóa bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và thúc đẩy công bằng xã hội. Điển hình như, cuộc đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa khác ở châu Á và châu Phi vào cuối những năm 40 đến những năm 60 của thế kỷ XX; cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Mỹ và Nam Phi; các nỗ lực ở các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế về thúc đẩy quyền của phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số... Đồng thời, thúc đẩy tạo ra hệ thống cơ chế quốc tế về quyền con người, bao gồm các cơ quan, cơ chế và tiêu chuẩn quốc tế để bảo đảm và thúc đẩy vấn đề quyền con người, như Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (năm 1993); Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (năm 2006); các Ủy ban Công ước của Liên hợp quốc về quyền con người(4). Ngoài ra, còn có các cơ chế khu vực về quyền con người, như: Tòa án Nhân quyền châu Âu, Tòa án Nhân quyền châu Phi, Tòa án Nhân quyền châu Mỹ,… và các cơ quan liên chính phủ ở cấp độ khu vực về quyền con người, như Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR). Tuyên ngôn cũng thúc đẩy sự phát triển không chỉ của luật về quyền con người quốc tế, mà còn cả những lĩnh vực khác của luật quốc tế khác có liên quan nhằm thực thi quyền con người, như: luật nhân đạo quốc tế, luật quốc tế về trách nhiệm hình sự quốc tế và việc trừng trị các tội ác chiến tranh, tội ác chống lại loài người...
Thứ hai, các nước đã đạt được những thành tựu to lớn trong thực hiện các quyền con người trên hàng loạt lĩnh vực ở khắp thế giới, góp phần cải thiện nhiều về mức sống, sức khỏe, giáo dục, lao động, an sinh xã hội của mọi người trên thế giới. Theo đó, quyền con người đã trở thành một trọng tâm trong hoạt động đối thoại toàn cầu về hòa bình, an ninh và phát triển. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự, chính trị và phát triển được công nhận là quyền có tính chất phổ quát, không thể phân chia và có sự tác động qua lại lẫn nhau. Không phân biệt đối xử và bình đẳng ngày càng được khẳng định là những nguyên tắc cơ bản của luật quyền con người quốc tế và là yếu tố thiết yếu của phẩm giá con người. Những biện pháp bảo vệ rõ ràng được quy định tại các điều ước quốc tế nhằm bảo vệ trẻ em, phụ nữ, nạn nhân bị tra tấn, người khuyết tật. Quyền của phụ nữ được thừa nhận là quyền cơ bản của con người. Phân biệt đối xử và hành vi bạo lực đối với phụ nữ luôn là một trong những trọng tâm trong thảo luận về quyền con người. Quyền con người của người khuyết tật được công nhận rõ ràng, đặc biệt và quan trọng nhất là quyền tham gia hiệu quả vào mọi lĩnh vực của cuộc sống trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Quyền của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới đã được đưa vào chương trình nghị sự quốc tế, được thảo luận tại Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc…
Sau 75 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người ra đời và phát triển, quyền con người đã được ghi nhận là một trong những giá trị cốt lõi của loài người và là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của một quốc gia, khu vực. Đồng thời, việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người vẫn là một ưu tiên quan trọng của các quốc gia trên thế giới với mức độ và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới luôn biến động không ngừng, vấn đề quyền con người ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng hơn, đã đặt ra năm vấn đề lớn, đòi hỏi các quốc gia, dân tộc, tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội và người dân cần quan tâm để tìm ra những phương hướng ứng xử phù hợp.
Một là, sự khác biệt trong nhận thức về chuẩn mực quyền con người còn tồn tại giữa các nước, nhóm nước, khu vực, kể cả trong người dân trong phạm vi quốc gia, chủ yếu do khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, các vấn đề lịch sử, chính trị, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, do đó dẫn đến những quan điểm và thực tiễn, ưu tiên khác nhau về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Điều này đòi hỏi các nước hoàn thiện chính sách, pháp luật, giáo dục, phổ biến quyền con người trên cơ sở Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và công ước quốc tế có liên quan, nâng cao năng lực của các cơ chế quốc gia, khu vực và quốc tế về quyền con người nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, thu hẹp khoảng cách, khác biệt giữa các quốc gia trong lĩnh vực quyền con người, đồng thời vẫn giữ được bản sắc dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Hai là, các thách thức cấp bách toàn cầu, như biến đổi khí hậu, thiên tai, chiến tranh, xung đột, khủng bố, dịch bệnh, di dân, mua bán người, an ninh mạng, an ninh thực phẩm, an ninh sinh học,… làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, không công bằng, nhất là trong tiếp cận vắc-xin và thiết bị y tế, khoảng cách về công nghệ số đã và đang ảnh hưởng lớn đến việc thụ hưởng quyền con người của hàng triệu người dân trên thế giới cả về sinh mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự… Đại dịch COVID-19 không chỉ gia tăng những chia rẽ và bất bình đẳng, mà còn xóa đi nhiều thành tựu về phát triển bền vững của thế giới. Trong khi đó, các cơ chế quốc tế về quyền con người còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong việc phòng ngừa và xử lý tác động tiêu cực của các hiện tượng này đối với thụ hưởng quyền con người. Các nỗ lực xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội cùng nhiều chỉ số khác về phát triển con người đứng trước nguy cơ tụt hậu. Bên cạnh đó, nổi lên những thách thức mới, như bất bình đẳng trong tiếp cận internet; xâm hại quyền con người trên không gian mạng, nhất là đối với trẻ em và phụ nữ; vấn nạn trầm cảm, tự kỷ; di cư do biến đổi khí hậu… Những vấn đề này đòi hỏi cộng đồng thế giới cần tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế để chung tay giải quyết, đáp ứng yêu cầu của tình hình.
Ba là, thách thức, nguy cơ tiềm ẩn về vi phạm quyền con người trong bối cảnh phát triển công nghệ tiên tiến, như công nghệ thông tin, kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo, sự thay đổi của các xu hướng và yêu cầu mới về quyền con người, mặc dù những phát triển công nghệ tiên tiến mang lại nhiều cơ hội và lợi ích cho con người. Các thách thức mới, như an ninh mạng, bảo mật dữ liệu cá nhân, bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong không gian mạng, chống phát ngôn thù hận và thông tin giả… đòi hỏi các nước và tổ chức quốc tế có những chính sách và biện pháp để điều tiết, quản lý, cân bằng các lợi ích liên quan và bảo đảm quyền con người.
Bốn là, hoạt động chống phá, lợi dụng vấn đề quyền con người của các thế lực thù địch, phản động đã làm giảm uy tín, thành quả tiến bộ về quyền con người mà nhiều nước đang phát triển trong thời gian qua phải hết sức nỗ lực để đạt được, nhất là các quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền của người dân tộc thiểu số… Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, tâm lý ngại thay đổi của người dân, dịch bệnh COVID-19,… để kích động chống đối chủ trương, chính sách của các quốc gia đang phát triển, chỉ trích các chính phủ vi phạm quyền tự do của người dân… Những hoạt động này đã phần nào tác động tiêu cực đến nhận thức của cộng đồng quốc tế về nỗ lực bảo đảm quyền con người của các nước đang phát triển.
Năm là, nhận thức và năng lực thực thi thúc đẩy và bảo vệ quyền con người còn có hạn chế nhất định trong việc thực thi quy định của pháp luật, chính sách, chương trình kinh tế - xã hội và văn hóa, nhất là đối với các đối tượng dễ bị tổn thương, ở những địa phương, quốc gia, đòi hỏi tiếp tục được nâng cao, củng cố để bảo đảm thực hiện hiệu quả hơn.
Việt Nam tích cực tham gia và đề cao Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
Đối với Việt Nam, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và việc kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được thông qua, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việt Nam đề cao Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, chia sẻ quan điểm quyền con người mang tính phổ quát, là khát vọng và giá trị chung của toàn nhân loại; ủng hộ đối thoại, hợp tác giữa các nước và tại các cơ chế đa phương của Liên hợp quốc về quyền con người; đồng thời, nhấn mạnh việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người một cách toàn diện, tổng thể, phù hợp chuẩn mực quốc tế được thừa nhận chung, cũng như quy định pháp luật liên quan của mỗi nước. Là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của Liên hợp quốc, ASEAN và cộng đồng quốc tế nói chung, Việt Nam luôn coi trọng và không ngừng đóng góp tích cực vào việc làm giàu những giá trị chung của nhân loại về quyền con người và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Ở cấp độ quốc gia, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người là chủ thể, mục tiêu và động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước; con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội; việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là bản chất, mục đích của chế độ xã hội chủ nghĩa và là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đi đến thắng lợi.
Một trong những thành tựu lớn nhất của Việt Nam là việc giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, thoát khỏi chế độ thuộc địa, thống nhất đất nước, từng bước phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền con người của người dân Việt Nam. Hệ thống pháp luật về quyền con người, bao gồm Hiến pháp, các luật, văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ngày càng hoàn thiện, cụ thể hóa và bảo đảm các quyền cơ bản của công dân theo tinh thần của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã dành riêng một chương với 36 điều quy định rõ về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, Việt Nam đã bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới hơn 100 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có một số đạo luật quan trọng, như Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật An ninh mạng năm 2018, Bộ luật Lao động năm 2019…
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói, giảm nghèo, phát triển con người và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việt Nam đã hoàn thành trước hầu hết các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ (MDG) và đang tích cực triển khai thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG). Theo thống kê của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng gần 46% trong 30 năm qua, nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng cao nhất thế giới. Tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 60 là 97,85% và tỷ lệ biết chữ độ trong độ tuổi từ 15 - 35 là 99,3%. Tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã đạt 73,6 năm (năm 2021). Trong 10 năm qua (2010 - 2020), tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng trưởng bình quân gần 6%; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn hai lần; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,2% xuống dưới 3%. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% dân số lên 90,7%.
Việc bảo đảm các quyền con người của Việt Nam được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực theo các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của 7/9 điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Việt Nam cũng là thành viên của 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quyền của người lao động, trong đó có 7/8 công ước cơ bản.
Việt Nam luôn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người, bao gồm bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, báo cáo quốc gia. Đồng thời, Việt Nam tích cực đối thoại và hợp tác với các cơ chế quốc tế của Liên hợp quốc về quyền con người, bao gồm cả việc tiến hành ba lần rà soát theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) vào các năm 2009, năm 2014, năm 2019 và chuẩn bị cho UPR lần thứ tư vào năm 2024. Đặc biệt, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các hoạt động hợp tác khu vực và quốc tế về thúc đẩy quyền con người, cũng như hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Trong đó, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Việt Nam tham gia tích cực các hoạt động của Hội đồng quyền con người, thúc đẩy các sáng kiến thể hiện dấu ấn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là việc tham gia Nhóm Nòng cốt tại Hội đồng quyền con người về biến đổi khí hậu và quyền con người. Ngày 11-10-2022, trong cuộc bầu cử do Đại hội đồng Liên hợp quốc tổ chức tại thành phố New York (Mỹ), Việt Nam tiếp tục được các nước tín nhiệm bầu làm thành viên Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Là ứng cử viên duy nhất của ASEAN cho nhiệm kỳ này, Việt Nam đã thúc đẩy thông điệp ứng cử “Tôn trọng và Hiểu biết. Đối thoại và Hợp tác. Tất cả các quyền con người cho tất cả mọi người” được các nước hưởng ứng, ủng hộ. Đáng chú ý, ngay trong Khóa họp đầu tiên đảm nhiệm cương vị thành viên Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025, diễn ra ở Thủ đô Geneve (Thụy Sĩ) vào ngày 3-4-2023, Việt Nam đã thể hiện vai trò xây dựng và đóng góp tích cực khi chủ trì giới thiệu, tham vấn, đề xuất Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Viên về quyền con người (1993 - 2023) bằng hình thức đồng thuận, với hơn 102 quốc gia tham gia đồng bảo trợ.
Ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã có những đóng góp thiết thực nhằm tăng cường đoàn kết và hợp tác trong ASEAN về quyền con người, đặc biệt trong quá trình xây dựng Hiến chương ASEAN và Cộng đồng ASEAN, Tuyên ngôn quyền con người ASEAN, thành lập và hoạt động của các cơ chế ASEAN liên quan đến quyền con người, qua đó khẳng định các cam kết của ASEAN về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực phù hợp với các chuẩn mực quốc tế được thừa nhận chung, tạo khuôn khổ cho việc tăng cường hợp tác của ASEAN trong lĩnh vực này.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt Nam cũng đối mặt với không ít thách thức chung trong vấn đề quyền con người. Hệ thống pháp luật và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức về quyền con người chưa thực sự đáp ứng tốt trước nhu cầu của người dân. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế về nhận thức và kỹ năng thực thi quyền con người trong triển khai công tác. Một số nước và tổ chức quốc tế vẫn có những quan điểm khác biệt hoặc thiếu khách quan về vấn đề quyền con người Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động ngày càng gia tăng những hoạt động lợi dụng quyền con người để xuyên tạc sự thật, gây mất ổn định, trật tự xã hội.
Do đó, Việt Nam cần thích ứng và cập nhật với những xu hướng và yêu cầu mới về quyền con người trong thời đại toàn cầu hóa. Các vấn đề, như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, di dân, công nghệ số,… có nhiều tác động đến việc thụ hưởng quyền con người của người dân. Việt Nam cần có những chính sách và biện pháp để bảo vệ quyền con người của người dân trước những thách thức mới này, đồng thời tận dụng cơ hội mới để nâng cao quyền con người. Cùng với việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người của người dân, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực để duy trì tham gia, đóng góp tích cực vào các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc trên cương vị thành viên của cơ quan liên chính phủ quan trọng nhất về quyền con người của Liên hợp quốc, cũng như hợp tác với các cơ chế quốc tế khác về quyền con người, qua đó góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định, phát triển bền vững và tôn trọng quyền con người.
Nhìn chung, kể từ khi giành lại độc lập cách đây hơn 78 năm, Việt Nam luôn đề cao Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, tham gia hầu hết công ước quốc tế về quyền con người, cam kết và nỗ lực mạnh mẽ trong việc thúc đẩy, bảo vệ quyền con người ở cả cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Việt Nam được bạn bè quốc tế ghi nhận là thành viên năng động, tích cực trong cộng đồng quốc tế. Năm 2023, Việt Nam cùng với Malaysia - hai quốc gia ASEAN đảm nhiệm cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền, luôn nỗ lực hỗ trợ, thúc đẩy hợp tác trong nội bộ khối ASEAN và giữa khu vực ASEAN với Hội đồng Nhân quyền, cũng như thu hút sự ủng hộ và hợp tác của thế giới với ASEAN vì tiến bộ quyền con người của mọi người dân trên thế giới./.
----------------------------------------------
(1) Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (năm 1948), https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Tuyen-ngon-quoc-te-nhan-quyen-1948-65774.aspx
(2) Điển hình như, Hiến pháp Ấn Độ năm 1950; Hiến pháp Nam Phi năm 1996; Hiến pháp Việt Nam năm 1959, năm 1980, năm 1990 và năm 2013
(3) Tuyên bố quyền con người ASEAN bao gồm 40 Điều, tâp trung vào các nhóm quyền căn bản: quyền dân sự và chính trị; quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền phát triển và quyền hưởng hòa bình; được xây dựng phù hợp Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Chương trình hành động Viên và các văn kiện quốc tế khác về quyền con người mà các quốc gia thành viên ASEAN tham gia
(4) Chín Ủy ban Công ước của Liên hợp quốc được thành lập trên cơ sở chín Công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người, bao gồm Ủy ban về xóa bỏ phân biệt chủng tộc (CERD, năm 1969), Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR, năm 1976), Ủy ban nhân quyền (CCPR, năm 1976), Ủy ban về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW, năm 1981), Ủy ban chống tra tấn (CAT, năm 1987), Ủy ban về quyền trẻ em (CRC, năm 1990), Ủy ban về người lao động di cư (CMW, năm 2003), Ủy ban về quyền của người khuyết tật (CRPD, năm 2008), Ủy ban về mất tích cưỡng bức (CED, năm 2010)
Tiếp cận dựa trên quyền con người trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế ở Việt Nam hiện nay  (28/11/2023)
Vấn đề quyền con người trong bối cảnh chuyển đổi số ở Séc  (31/08/2023)
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng dự Lễ xuất quân của Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 5 và Đội Công binh số 2 tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc  (30/06/2023)
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982: Bốn mươi năm vì hòa bình, phát triển bền vững biển và đại dương  (04/11/2022)
Xu hướng tự chủ chiến lược trong quan hệ quốc tế hiện nay  (23/10/2022)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam