TCCSĐT - Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu tất yếu trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đây cũng là nguyên tắc được hiến định tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Bởi vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình tổ chức triển khai Hiến pháp năm 2013 vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc xác lập địa vị pháp lý của các thiết chế cao nhất trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Khi đặt vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước phải xuất phát từ sự nhất quán trong tư tưởng của Người về nguyên tắc chủ quyền Nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mà tiêu biểu là quy định tại điều 31 của Hiến pháp năm 1946 “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và 70”; “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết” (Điểm c, Điều 70 của Hiến pháp năm 1946).

Với quy định này, Nhân dân giữ vai trò là chủ thể quyết định việc thiết kế, tổ chức và xác định cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Để bảo đảm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm tránh sự xâm phạm về quyền trong cách thức xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng việc hiến định nguyên tắc này trong Hiến pháp để thiết kế một bộ máy nhà nước mà ở đó có sự giới hạn quyền lực của các thiết chế quan trọng nhất. Chính sự phân quyền trong Hiến pháp năm 1946 đã làm cho quyền lực nhà nước được kiểm soát từ bên ngoài và từ chính nội bộ hệ thống các cơ quan nhà nước với nhau. Bản chất sự kiểm soát quyền lực nhà nước trong mô hình nhà nước pháp quyền tự thân nó đã đặt ra các yêu cầu cho việc Hiến pháp phải tạo nên sự cân bằng và chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực nhà nước. Mỗi nhánh quyền lực đều có quyền giám sát tối cao trong phạm vi được phân quyền đối với các nhánh quyền lực khác. Và chỉ Nhân dân - chủ thể duy nhất, thống nhất mới có quyền giám sát thống nhất đối với hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước.

Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quy định này của Hiến pháp là sự bảo đảm pháp lý cao nhất cho quá trình đổi mới bộ máy nhà nước. Với quy định này, Quốc hội tại Hiến pháp năm 2013 được xác định là “Cơ quan thực hiện quyền lập hiến và lập pháp” (Điều 69); “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội” (Điều 94); “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102) và “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” (Điều 107). Theo đó Hiến pháp năm 2013 đã xác lập rạch ròi 3 chế định cơ bản của nhà nước pháp quyền: Quốc hội - lập pháp; Chính phủ - hành pháp và Tòa án - tư pháp.

Tuy nhiên, nếu Hiến pháp năm 1946 cùng với quy định “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Điều thứ 22); “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” (Điều thứ 43); Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Điều thứ 63) đã giành 2 điều khoản quy định về quyền bãi miễn các đại biểu của nhân dân (Điều thứ 20) và quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều thứ 21). Với 2 quy định này, Hiến pháp năm 1946 đã hiến định tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí chủ thể quyền lực nhà nước của Nhân dân. Hiến pháp năm 2013, ngoài quy định tại Lời nói đầu về việc “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, tại Khoản 4 Điều 120 của Hiến pháp năm 2013 chỉ đặt ra vấn đề “Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”. Tại Điều 19, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015 cụ thể hóa quy định này như sau: 1/Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp hoặc về những vấn đề quan trọng khác theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội; 2/Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân. Tại Khoản 1, Điều 6, Luật Trưng cầu ý dân tiếp tục quy định: Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân về toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp. Điều 14 của Luật này tiếp tục thống nhất với các văn bản pháp luật khác khi quy định về các chủ thể có thẩm quyền đề nghị trưng cầu ý dân: Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân. Như vậy, trưng cầu ý dân về Hiến pháp chưa phải là quy định bắt buộc để Hiến pháp thông qua. Sự tham gia của Nhân dân đối với quy trình thông qua hoặc sửa đổi Hiến pháp sẽ phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể có thẩm quyền trong việc đề nghị trưng cầu ý dân được quy định tại Điều 14 Luật Trưng cầu ý dân và sự quyết định của Quốc hội.

Bởi vậy, trong việc hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp việc đầu tiên cần tiến hành đó là phải xác định chính xác chủ thể kiểm soát chung của quyền lực nhà nước. Mọi chủ thể công quyền đều chịu sự ủy quyền về quyền lực và sự kiểm soát của Nhân dân. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước tự thân nó đòi hỏi phải có sự phân quyền để kiểm soát và ngăn chặn sự lạm quyền. “Bản thân sự phân công rành mạch nói trên đã tạo ra sự kiểm soát quyền lực. Tuy nhiên cần phải xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực riêng biệt trong Hiến pháp và trên thực tế để ngăn ngừa sự lạm quyền, bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp cần được trao những thẩm quyền để có thể kiểm soát lẫn nhau, không một cơ quan nào được tuyệt đối tự do hành động mà không có sự can dự của cơ quan khác, nhất là kiểm soát quyền lực của hành pháp”(1).

Tính độc lập của Quốc hội - lập pháp; Chính phủ - hành pháp; Tòa án - tư pháp không đồng nghĩa với việc các thiết chế này hoạt động độc lập bởi đây chỉ là những nhánh quyền về chức năng và là sự phân chia về kỹ thuật trên cơ sở sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Đồng tình với quan điểm rằng “Các thiết chế hiến định độc lập, cho dù có vị trí quyền lực riêng, vẫn phải luôn luôn có mối quan hệ với các nhánh quyền lực khác và ở những mức độ nhất định chịu sự giám sát trở lại của các nhánh quyền lực đó, mặc dù bản thân chúng có chức năng giám sát các cơ quan này. Đó chính là biểu hiện tập trung của sự phối hợp quyền lực trong bất kỳ quốc gia nào… và cũng là cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực”(2), chúng tôi cho rằng, đổi mới hoạt động của Quốc hội phải đặt trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với Chính phủ, Tòa án và phải xuất phát từ tính thống nhất của quyền lực nhà nước và tính đại diện trong hoạt động của Quốc hội so với các hệ cơ quan khác. Khi quyền lập hiến thuộc về Nhân dân và Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân thì khả năng kiểm soát của Quốc hội phụ thuộc vào khả năng hiện thực hóa các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của chính Quốc hội trong mối quan hệ đối với các hệ cơ quan khác. Sáng kiến pháp luật có thể thuộc về Chính phủ hoặc các cơ quan nhà nước khác song Quốc hội là cơ quan thông qua luật, có thẩm quyền “quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều 69, Hiến pháp năm 2013). Ngoài ra, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (hiệu lực thi hành ngày 1-7-2016) cùng với các bộ luật, luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành; Chính phủ có thẩm quyền ban hành nghị định. Tại Điều 19 của Luật này xác định một trong các trường hợp Chính phủ được ban hành nghị định đó là khi “vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”. Như vậy, trong trường hợp này thì Chính phủ - ở khía cạnh nhất định - đã được Quốc hội chuyển giao quyền lập pháp trong một hoàn cảnh cụ thể được xác định. Vô hình chung Điều 19 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã vượt qua Hiến pháp khi xác định thẩm quyền của Chính phủ trong việc ban hành các nghị định điều chỉnh các quan hệ xã hội vốn dĩ phải được điều chỉnh bởi luật và thuộc thẩm quyền của Quốc hội được quy định tại Điều 70 của Hiến pháp năm 2013. Bởi vậy, cùng với việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội (bao gồm cả Hiến pháp) thì việc nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội là điều phải làm trong thực tiễn Việt Nam hiện nay.

Xét đến cùng mỗi thiết chế đều hoạt động và bị giới hạn bởi một hành lang pháp lý nhất định song ngay cả sự hoàn hảo của hệ thống pháp luật cũng vô ích nếu chúng ta không có những con người phù hợp với hệ thống đó. Bên cạnh đó, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước là chức năng hiến định của Quốc hội. Tại Khoản 2, Điều 70, Hiến pháp năm 2013 quy định “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”. Khoản 10, Điều 70 của Hiến pháp tiếp tục quy định: Quốc hội có quyền “Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội”.

Cơ chế nào giám sát chính các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành?

Tại Điều 10, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2015 cũng chỉ đặt ra vấn đề xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội “1. Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, đình chỉ việc thi hành và trình Quốc hội xem xét, quyết định việc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất. 2. Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì đại biểu Quốc hội đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó; Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có trách nhiệm xem xét, trả lời đại biểu Quốc hội. Trong trường hợp đại biểu Quốc hội không đồng ý với trả lời của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước thì yêu cầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất”. Tuy nhiên, hệ thống các quy định này còn thiếu vắng cơ chế giám sát chính các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành. Điều này đặt ra 2 vấn đề cần giải quyết: thứ nhất, chủ thể nào có thẩm quyền giám sát văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành?; thứ hai, phải xử lý như thế nào nếu có sự vi phạm? Sự khiếm khuyết này thể hiện ngay trong xây dựng pháp luật hiện nay. Không có bất cứ văn bản pháp luật nào điều chỉnh và kiểm soát tính pháp quyền trong các văn bản do Quốc hội ban hành.

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam

Sự kiểm soát của Quốc hội với các thiết chế nhà nước khác còn được thể hiện trong các quy định về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước (Khoản 1, Điều 80, Hiến pháp năm 2013). Tuy nhiên để hoạt động chất vấn có hiệu quả cần kế thừa hợp lý giá trị quy định tại Điều 30 của Hiến pháp năm 1946 “Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị viện”. Quy định này không chỉ bảo đảm sự giám sát của Nhân dân đối với hoạt động của Quốc hội mà còn góp phần nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, tăng sự chuyên nghiệp trong hoạt động của chính đại biểu Quốc hội. Do đó, cần cụ thể quy định tại Khoản 3, Điều 94 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 “Công dân có thể được vào dự thính tại các phiên họp công khai của Quốc hội”.

Cùng với những đổi mới nhất định trong các quy định về địa vị pháp lý của Quốc hội, mặc dù không hoàn toàn giống Hiến pháp năm 1946 song Điều 94 Hiến pháp năm 2013 đã có sự đột phá khi quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Việc xác định rõ Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp đã thể hiện tư duy mới trong tổ chức quyền lực nhà nước. Sự đổi mới trong tư duy này xuất phát từ sự đổi mới trong nhận thức về mô hình nhà nước pháp quyền và vai trò của Chính phủ trong nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp dân chủ đánh dấu sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xác lập những nguyên tắc căn bản đầu tiên cho việc thực hiện một chính quyền “mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Hiến pháp năm 1946 với mô hình hành pháp 2 đầu đã tạo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Chính phủ với Nghị viện nhân dân và Tòa án thông qua các quy định về quyền phủ quyết tương đối của Chủ tịch nước đối với các đạo luật của Nghị viện nhân dân; thẩm quyền bổ nhiệm của Chính phủ đối với thẩm phán; quyền tác động trực tiếp của Chính phủ đến hoạt động lập pháp của Nghị viện nhân dân; quyền đưa vấn đề tín nhiệm Nội các ra Nghị viện thảo luận lại của Chủ tịch nước; quyền lập dự án ngân sách hằng năm của Chính phủ… cùng với các quy định về chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của các vị bộ trưởng đối với lĩnh vực phụ trách. Chính phủ trong Hiến pháp năm 1946 là một Chính phủ thực quyền và chịu trách nhiệm. Đây cũng là bài học lịch sử mà Hiến pháp năm 1946 để lại cho chúng ta trong việc xây dựng nền hành pháp mạnh của Nhân dân.

Cùng với Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (hiệu lực thi hành vào ngày 01-01-2016) đã có những điều chỉnh để phù hợp với vai trò Chính phủ thực hiện quyền hành pháp. Tại Điều 96 của Hiến pháp năm 2013, bên cạnh việc xác định thẩm quyền của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước (Khoản 1) đã quy định về quyền của Chính phủ trong việc đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Khoản 2). Tinh thần này tiếp tục được thể hiện trong Khoản 1, Điều 98 của Hiến pháp năm 2013 về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật. Tuy nhiên Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 không kế thừa chế định bất tín nhiệm Chính phủ đã được quy định tại Điều thứ 54 của Hiến pháp năm 1946. Bản chất của chế định này đó là Chính phủ phải từ chức khi không còn được tín nhiệm. Chế độ bất tín nhiệm đối với tập thể Chính phủ là sự thể hiện minh bạch nhất cho một Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội được quy định tại Điều 94 của Hiến pháp năm 2013(3).

Cùng với chế định Nghị viện nhân dân và chế định Chính phủ, trong Hiến pháp năm 1946, Tòa án được thiết kế độc lập để thực hiện quyền tư pháp. Đây là một trong các điều kiện căn bản đầu tiên cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền, là đảm bảo cho sự tồn tại của một nhà nước dân chủ, là phương tiện để Nhân dân bảo vệ chính mình và chống lại sự xâm hại thậm chí từ phía các chủ thể công quyền, là cam kết pháp lý của nhà nước về một nhà nước minh bạch và trách nhiệm của Nhân dân. Điều thứ 63 Hiến pháp năm 1946 quy định Tòa án chính là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về một nền tư pháp của Nhân dân có thể thấy 2 vấn đề cơ bản: thứ nhất đó chính là yêu cầu về sự độc lập của tư pháp; thứ hai đó là yêu cầu về đội ngũ thẩm phán tài năng, đức hạnh và liêm chính phụng công thủ pháp chí công vô tư khi xét xử. Bản chất của tư pháp xét đến cùng trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn chỉ là vấn đề ở đời và làm người, là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đọa đầy đau khổ.… Bởi lẽ đó, thẩm phán phải là người có thể đại diện cho công lý với lương tri của người phụng công thủ pháp với tinh thần liêm chính. Chính tinh thần này của Người đã thể hiện trọn vẹn trong quy định tại Khoản 3 Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 đó là: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bởi vậy, kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về tư pháp, trước hết đó là kế thừa tư tưởng của Người về một nền tư pháp độc lập, một nền tư pháp đủ mạnh, đủ thông thái để bảo vệ con người. Bản thân sự độc lập của Tòa án đã tạo ra sự kiểm soát của nhánh quyền lực này trong trong mối quan hệ với các nhánh quyền lực khác. Để tư pháp độc lập phải bảo đảm điều kiện mọi chủ thể không loại trừ đều có thể là đối tượng xét xử của tòa án; để Tòa án độc lập phải bảo đảm điều kiện để thẩm phán xét xử độc lập; để Tòa án có thể bảo vệ công lý, thẩm phán phải thông tuệ và xét xử theo lương tri. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2015 có những đổi mới đáng kể để thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp tư¬ pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Sự điều chỉnh trong các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2015 về cơ cấu của hệ thống tòa án với sự xuất hiện của tòa án nhân dân cấp cao và sự điều chỉnh trong các quy định về nhiệm kỳ của thẩm phán đã tạo nền tảng quan trọng cho quá trình đổi mới này. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về tư pháp xét đến cùng, chính là kế thừa tư tưởng của Người về một nền tư pháp độc lập. Tư tưởng này của Người vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc cải cách tư pháp Việt Nam hiện nay./.

------------------------------------------------------

(1) Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, t 1, tr.294

(2) Viện Nghiên cứu chính sách công và pháp luật (2013), Các thiết chế hiến định độc lập, kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.19-20

(3)Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, t 2, tr.449, 458