Ngày hội văn hóa Bác Hồ với tuổi thơ
trên Bến Nhà Rồng Thành phố Hồ Chí Minh
- Ảnh TTXVN
Ngành giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh với trên 70 ngàn giáo viên và gần 1,5 triệu học sinh các cấp học từ mầm non, tiểu học, trung học phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục thường xuyên có quy mô lớn, với những điều kiện thuận lợi và khó khăn đặc thù của một thành phố năng động, đa dạng; tuy đạt được những thành tựu khả quan nhưng cũng đang phải đối mặt với nhiều áp lực về chất lượng cao trước xu thế đổi mới và hội nhập...

1 - Những bước phát triển

Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước, đồng hành với các lĩnh vực của xã hội, ngành giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, đã có những bước phát triển về quy mô, chất lượng và đổi mới về cơ chế hoạt động của nhà trường.

Thành phố Hồ Chí Minh đã phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 1995, phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở vào năm 2002, đang thực hiện phổ cập bậc trung học. Thành phố có một hệ thống trường lớp tương đối tốt với một cơ chế xây dựng khá hiệu quả. Thành phố xác lập cơ cấu đầu tư xây dựng trường học chiếm tỷ trọng 20% ngân sách xây dựng cơ bản hằng năm; thực hiện phân cấp quy hoạch và xây trường cho quận, huyện; đến nay về cơ bản đã bảo đảm được chỗ học ổn định cho conem mọi tầng lớp nhândân.

Chất lượng đào tạo của các nhà trường tương đối tốt; giáo dục đạo đức, luật pháp và giáo dục thể chất đều được quan tâm thực hiện, luôn giữ thứ hạng cao so với cả nước. Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông hằng năm được giữ vững, ổn định trên 90% kể cả trước và sau khi thực hiện cuộc vận động “Hai không” của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg, ngày 08-9-2006, của Thủ tướng Chính phủ. Lực lượng sư phạm và quản lý nhà trường luôn phấn đấu bám sát các yêu cầu đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lựcđội ngũ theo tinh thầnChỉ thị số 40-CT/TW, ngày 15-6-2006, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; trong đó tỷ lệ đạt chuẩn sư phạm của toàn đội ngũ hiện nay là trên 99%.

Công tác quản lý nhà trường đang được chuyên nghiệp hóa về cơ chế hoạt động, sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành từ thành phố đến các cơ sở trường học. Hoạt động xã hội hóa giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức thực hiện trên cả 2 mặt: mục tiêu và biện pháp tổ chức giáo dục; được Bộ Giáo dục và Đào tạo tuyên dương khen thưởng trong nhiều năm liền, có những điển hình thu hút nhiều đồng nghiệp các tỉnh, thành đến tham quan, học tập. Về mục tiêu, nhà trường đã tích cực đào tạo theo yêu cầu xã hội, không ngừng mở rộng các hoạt động cho học sinh tiếp cận với thực tế địa phương. Về biện pháp, mức huy động xã hội hóa trong và ngoài hệ thống các trường công lập gần đạt tỷ lệ 1/1 so với ngân sách chi thường xuyên hằng năm, nâng định mức đầu tư lên 1,5 lần/học sinh v.v.

Tuy nhiên, ngành giáo dục và đào tạo của Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang đứng trước những khó khăn không nhỏ. Đó là nhận thức về xã hội hóa giáo dục chưa đồng đều, chưa thống nhất giữa các lực lượng xã hội; cơ chế hoạt động và hệ thống văn bản pháp quy từ Trung ương chưa đầy đủ, rõ ràng. Khó khăn chính của ngành giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là số học sinh nhập cư mỗi lúc một đông hơn, đang chiếm tỷ lệ 30% tổng số học sinh, luôn tạo áp lực quá tải cho các nhà trường. Bên cạnh đó, chế độ và thu nhập của đội ngũ giáo viên thấp so với mức sống thực tế tại địa phương.

2 - Những bất cập so với yêu cầu phát triển

Giáo dục thế giới đang đi vào thế kỷ XXI với 4 mục tiêu cơ bản cho người học là: học để biết, học để làm, học chung sống và học để tự hoàn thiện mình. Phương pháp dạy học đang đổi mới mạnh mẽ từ dạy học số đông sang dạy học cá thể. Quan điểm sư phạm và phương pháp dạy học ấy được thể hiện cụ thể trong việc đầu tư tổ chức hoạt động trong từng nhà trường như giảm sĩ số học sinh trong lớp học (mỗi lớp khoảng từ 20 đến 30 học sinh); tăng thời lượng học tập và hoạt động trong trường (cả ngày); thiết lập và cung cấp đủ thiết bị dạy cho giáo viên và thiết bị học cho từng học sinh; nội dung chương trình được xây dựng tích hợp theo hướng giảm môn học, giảm lý thuyết, tăng thực hành, tăng điều kiện tự học, giúp học sinh có kỹ năng sống và lý giải được những vấn đề của cuộc sống một cách sống động; công tác quản lý giáo dục được phân cấp mạnh mẽ và cụ thể cho nhà trường với một cơ chế tự chủ tích cực. Giáo viên được đào tạo sư phạm theo quan điểm dạy học cá thể, có năng lực nhận xét đánh giá một cách khoa học đối với từng học sinh, từ đó chọn lựa áp dụng những hình thức giáo dục phù hợp để phát triển nhân cách, phát huy năng khiếu và tổ chức hướng dẫn cho học sinh tìm tòi, tiếp nhận tri thức và rèn luyện kỹ năng.

Từ tình hình giáo dục và đào tạo nước ta nói chung và của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, có thể thấy những bất cập cơ bản của chúng ta là:

- Cơ sở vật chất trường lớp chật hẹp, sĩ số trong lớp đông (40 - 50 học sinh); hầu hết học sinh học tập 1 buổi/ngày.

- Quan điểm sư phạm, nội dung và phương pháp dạy học còn nặng lý thuyết, ít thực hành; dạy học cho số đông, chủ yếu đối phó với thi cử, ít có điều kiện giáo dục toàn diện cho học sinh theo mục tiêu đã đặt ra.

- Công tác quản lý nặng về hành chính, quan liêu, bao cấp; chưa phân cấp cho cơ sở trường học, nhà trường chưa có điều kiện pháp lý thực thi cơ chế tự chủ.

- Giáo dục chuyên nghiệp dạy nghề cũng còn nhiều bất cập, quản lý đứt khúc theo hình thức quản lý khác nhau của 2 Bộ (Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội); đầu tư tản mạn, thiếu tập trung và chưa đúng mức để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho địa phương.

3 - Chủ động đổi mới và hội nhập

Đổi mới và hội nhập quốc tế là con đường phát triển tất yếu của đất nước trong thời đại ngày nay. Chúng ta có thời cơ để phát triển, nhưng đồng thời cũng phải đối đầu với không ít những thách thức, khó khăn. Giáo dục và đào tạo là một hoạt động chịu ảnh hưởng sâu sắc của bối cảnh ấy.

Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII (2006 - 2010) của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ chính trị của địa phương là “chủ động hội nhập và phát triển”. Ngành giáo dục và đào tạo của Thành phố đã nhận thức đầy đủ trách nhiệm và xác định tiến trình hội nhập và phát triển nhà trường.

Thành phố chọn năm 1999 là “Năm giáo dục” của Thành phố Hồ Chí Minh, chuẩn bị thực hiện kế hoạch 5 năm (2000 - 2005); thiết lập cơ chế xây dựng trường lớp, bảo đảm chỗ học cho mọi trẻ em; thực hiện phổ cập giáo dục; tạo tiền đề quan trọng về cơ sở vật chất - kỹ thuật, nền tảng căn bản của hệ thống giáo dục quốc dân và cơ chế quản lý điều hành để hội nhập và phát triển.

Năm 2006 là năm đầu tiên ngành giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực, xây dựng những mô hình tiên tiến, đi đầu trong việc tiếp cận với chất lượng đào tạo của các trường tiên tiến quốc tế, chuẩn bị nhân rộng các điển hình tiên tiến trong giai đoạn 2011 - 2015.

Thực hiện hội nhập quốc tế, ngành giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành theo 3 lộ trình căn bản: một là, tạo điều kiện để học sinh du học, giáo viên tham gia tu nghiệp quốc tế; hai là, mở rộng liên kết đào tạo, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, du nhập chương trình và phương pháp đào tạo tiên tiến; ba là, tích cực xây dựng trường học Việt Nam theo chuẩn quốc tế.

Với lộ trình du học: Thành phố đang tập trung chấn chỉnh về tổ chức và chuyên môn, nghiệp vụ của hệ thống các trung tâm tư vấn du học tự túc; tranh thủ học bổng cho du học sinh; cử cán bộ, giáo viên đi tu nghiệp. Đến nay, đã có gần 100 cán bộ, giáo viên đi tu nghiệp nước ngoài và hàng ngàn du học sinh các nước mỗi năm.

Về liên kết đào tạo, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, du nhập chương trình và phương pháp đào tạo tiên tiến: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh thành lập tổ công tác quản lý các trường có yếu tố nước ngoài; xây dựng trang điện tử thuộc Trung tâm thông tin và chương trình giáo dục của Sở để thường xuyên cập nhật thông tin quản lý nhà trường, từ cơ sở vật chất đến giáo viên, học sinh và chương trình giảng dạy; thành lập trường công lập quốc tế Việt - úc (thuộc Sở), đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các trường quốc tế. Hiện đã có gần 50 đơn vị có yếu tố nước ngoài được thành lập và hoạt động trong tổng số gần 1.500 đơn vị trường học của hệ thống giáo dục quốc dân tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Về xây dựng trường học Việt Nam theo chuẩn quốc tế: đây là lộ trình cơ bản nhất mà Thành phố Hồ Chí Minh đang tập trung, kiên trì, đầu tư xây dựng nhằm đủ sức cạnh tranh về chất lượng với các trường quốc tế; giữ thế chủ đạo trong hệ thống giáo dục quốc dân trong xu thế đổi mới và hội nhập. Đây cũng là con đường cơ bản nhất để ngành giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh chủ động hội nhập và phát triển với các tiêu chí như: trường học mầm non an toàn, bền vững; trường tiểu học hiện đại; trường trung học phổ thông và trường chuyên nghiệp tiên tiến; giáo dục thường xuyên phát triển đa dạng đáp ứng yêu cầu xã hội học tập. Trên tinh thần đó, Thành phố Hồ Chí Minh bước đầu đã có những mô hình nhà trường tiếp cận với tính tiên tiến của quốc tế như Trường Mầm non 19/5, Trường Tiểu học Võ Trường Toản, Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Trường Cao đẳng Kỹ thuật nghiệp vụ Thủ Đức...

Đổi mới và hội nhập giáo dục và đào tạo với thế giới là một nhiệm vụ hấp dẫn và rất vẻ vang đối với đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên của ngành giáo dục và đào tạo, dù khó khăn thử thách rất nặng nề. Giáo dục và đào tạo Việt Nam đang chứa đựng những tiềm năng rất cơ bản để phát triển. Đó là truyền thống hiếu học của dân tộc được thể hiện cụ thể ở từng học sinh; đội ngũ nhà giáo thông minh, khéo léo, chịu thương chịu khó, hết lòng vì học sinh; lực lượng phụ huynh sẵn sàng cùng Nhà nước chia sẻ đầu tư xây dựng nhà trường... Vấn đề còn lại hiện nay là cơ chế, là sự thể chế hóa đường lối xã hội hóa giáo dục của Đảng và chủ trương xây dựng nhàtrường tự chủ của Chính phủ.

Năm 2005, Chính phủ đã có Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP, ngày 18-4-2005, về thúc đẩy giao quyền tự chủ cho nhà trường trên cả 3 phương diện: tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, tổ chức nhân sự và tổ chức tài chính. Nhưng đến nay, địa phương chỉ có thể xây dựng điển hình, không có cơ sở pháp lý để phát triển rộng. Các bộ, ngành cần sớm hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ cho nhà trường, để trên cơ sở đó, người hiệu trưởng phối hợp chặt chẽ với ban đại diện cha mẹ học sinh và phát huy dân chủ trong tập thể sư phạm để có những giải pháp cụ thể, sâu sát và phù hợp phát triển nhà trường. Các yêu cầu cụ thể, sâu sát không có một cơ quan quản lý cấp trên nào có thể làm thay cho nhà trường.

Giải quyết được các yêu cầu trên, chắc chắn tiến trình hội nhập và phát triển của ngành giáo dục và đào tạo ở Việt Nam nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng sẽ thành công với tốc độ nhanh chóng hơn./.