Kinh nghiệm của tỉnh Hưng Yên trong phát triển kinh tế di sản

Nguyễn Duy Hưng
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên
13:26, ngày 07-12-2024

Di sản văn hóa là sản phẩm vật chất và tinh thần gắn liền với cộng đồng dân cư, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, góp phần khẳng định niềm tự hào dân tộc. Di sản văn hóa ngày càng khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, là nguồn tài nguyên phong phú tạo ra các sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo và khác biệt, đóng góp trực tiếp vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nơi có di sản.

Việt Nam là quốc gia có truyền thống văn hiến lâu đời với kho tàng di sản văn hóa đặc sắc, đa dạng. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và xác định rõ vị trí, vai trò và đóng góp của di sản văn hóa cho tiến trình phát triển của quốc gia, dân tộc, được thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”.

1. Tỉnh Hưng Yên Nằm ở phía đông nam và liền kề thủ đô Hà Nội, thuộc vùng trung tâm đồng bằng sông Hồng, 3 phía của tỉnh được bao quanh bởi các con sông là sông Hồng ở phía Tây, sông Luộc ở phía Nam, một phần sông Cửu An và sông Bắc Hưng Hải ở phía Đông. Hiện nay, Hưng Yên có hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt đồng bộ, bảo đảm sự gắn kết giữa các địa phương, đô thị và nông thôn, đặc biệt với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Thế kỷ XVI - XVII, Hưng Yên là trung tâm của trấn Sơn Nam, có Phố Hiến là một thương cảng lớn nhất ở Đàng Ngoài. Với vị trí địa lý đặc biệt, thuận tiện giao thương đường sông giữa Kinh thành Thăng Long với các vùng trong nước và nối ra cửa biển Ba Lạt, cùng với chính sách của triều đình nhà Lê thời đó, Phố Hiến là một trạm kiểm soát tàu bè vào Kinh Thành, nên đã nhanh chóng trở thành một đô thị sầm uất bên tả ngạn sông Hồng, có vai trò là một thương cảng, một lỵ sở, một đô thị lớn, có vị trí thứ hai sau Kinh thành Thăng Long. Khi đó, Kinh thành Thăng Long có 36 phường thì Phố Hiến có 25 phường trong đó có tới 8 phường thủ công. Đây là nét đặc sắc của Phố Hiến, làm cho Phố Hiến khác với đô thị đương thời, xứng danh với câu “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, được ví là “Tiểu Tràng An” thời bấy giờ.

Người dân Hưng Yên tự hào về quê hương văn hiến, giàu truyền thống cách mạng; nơi sinh của nhiều bậc hào kiệt, các nhà văn hóa lớn của đất nước cùng bề dầy di sản. Trên địa bàn tỉnh hiện lưu giữ 1.803 di tích các loại, trong đó 3 di tích, khu di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; 176 di tích, cụm di tích xếp hạng quốc gia; 279 di tích, cụm di tích xếp hạng cấp tỉnh và 8 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia, cùng hàng nghìn tài liệu, hiện vật, cổ vật có giá trị. Hưng Yên có số di tích xếp hạng quốc gia đứng thứ 3 trong cả nước, có những khu di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như: cụm di tích Đa Hòa - Dạ Trạch gắn với truyền thuyết về Chử Đồng Tử - Tiên Dung, cụm di tích đình Đại Đồng và chùa Nôm, di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, cụm di tích Tống Trân - Cúc Hoa, di tích Đậu An... Trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể Hưng Yên hiện lưu giữ 567 lễ hội truyền thống, trong đó có 6 lễ hội được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; 128 đơn vị ca dao, tục ngữ, hò, vè, sự tích, hát ru, văn tế; 111 loại hình tri thức dân gian; 166 làng nghề thủ công truyền thống, tiêu biểu như: Làng nghề tương Bần, làng nghề hương xạ thôn Cao, làng nghề đúc đồng Lộng Thượng, làng nghề chạm bạc Huệ Lai; làng nghề đan đó Thủ Sỹ... Hưng Yên cũng là vùng đất có nhiều sản vật truyền thống nổi tiếng: nhãn lồng Hưng Yên, gà Đông Tảo, vải trứng, cam Hưng Yên... Đây là những nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế di sản của tỉnh.

Qua 27 năm tái lập (năm 1997), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hưng Yên đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đạt nhiều thành tựu quan trọng, hoàn thành khá toàn diện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng cường tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; nông nghiệp đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và nâng cao giá trị. Năm 2023, tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 10,05%, vượt kế hoạch đề ra, thuộc nhóm có chỉ số tăng trưởng cao trong cả nước; tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt 112,3 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,86%; phấn đấu đến năm 2030 không còn hộ nghèo. Hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh đã có bước phát triển vượt bậc, nhất là hệ thống giao thông, thông tin - liên lạc và điện lưới quốc gia. Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực. Sự nghiệp văn hóa, con người Hưng Yên đã có những bước phát triển khá toàn diện. Các hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng, đáp ứng cơ bản nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở được quan tâm đầu tư nâng cấp. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát huy giá trị. Nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển. An sinh xã hội được bảo đảm, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ có bước tiến bộ quan trọng, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.

2. Để gìn giữ và phát huy những giá trị di sản văn hóa và nguồn tài nguyên du lịch hiện hữu; xác định vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội và trước yêu cầu phát triển bền vững, Hưng Yên đã đưa sản phẩm du lịch văn hóa thành một sản phẩm quan trọng hàng đầu trong kế hoạch phát triển du lịch của tỉnh; chú trọng phát triển du lịch văn hóa, gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa quê hương. Tỉnh ủy Hưng Yên qua các nhiệm kỳ đều ban hành nghị quyết, kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo như: Chương trình hành động số 34-CTr/TU ngày 15-8-2014 “Về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Kế hoạch số 60-KH/TU ngày 25-5-2017 “Về thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn”; Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 8-10-2021 “Về Chương trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, di tích lịch sử gắn với phát triển du lịch tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030”...

Nhằm cụ thể hóa, thực hiện các nghị quyết, kế hoạch của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đã ban hành: Đề án tu bổ, chống xuống cấp di tích cấp tỉnh, cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 và 2021 - 2025; Quy định quản lý di tích, di vật, bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Quy định về ứng xử văn hóa tại di tích trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình số hóa Di sản văn hóa giai đoạn 2021 - 2030 trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Kế hoạch bảo tồn và phát triển làng nghề tỉnh Hưng Yên…

Trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích văn hóa, lịch sử: Nhằm khai thác và phát huy hiệu quả giá trị di sản, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh tín ngưỡng của nhân dân, đồng thời góp phần quan trọng vào việc phát triển du lịch, thúc đẩy kinh tế - xã hội tỉnh, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản triển khai thực hiện: Kế hoạch số 99/KH-UBND ngày 11-7-2019 “Về bảo vệ, bảo quản và phát huy giá trị bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh Hưng Yên”; ban hành các quyết định đề án đầu tư tu bổ, chống xuống cấp các di tích xếp hạng cấp tỉnh, cấp quốc gia tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2025. Đến nay, đã đầu tư tu bổ, chống xuống cấp cho trên 50 di tích xếp hạng cấp quốc gia, với tổng kinh phí ước tính khoảng gần 300 tỷ; trên 40 di tích xếp hạng cấp tỉnh, với kinh phí đầu tư tu bổ ước tính khoảng trên 200 tỷ. Trong năm 2023, tỉnh đã bổ sung nguồn vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 đầu tư 13 dự án tu bổ, tôn tạo di tích, với kinh phí 85 tỷ đồng. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tiếp tục triển khai các dự án trọng điểm đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, như triển khai Quyết định số 744/QĐ-TTg ngày 27-5-2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị đô thị cổ Phố Hiến và các dự án, quy hoạch khác...

Hoạt động sưu tầm các hình ảnh, tư liệu lịch sử và công tác trưng bày được Bảo tàng tỉnh thực hiện thường xuyên, phục vụ du khách tham quan, nghiên cứu, học tập, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Đến nay, sưu tầm được tổng số 12.000 tài liệu, hiện vật; sưu tầm, số hoá 13.000 trang tài liệu Hán Nôm; nghiên cứu xuất bản 13 ấn phẩm; phục chế 60 hiện vật tiêu biểu có giá trị lịch sử văn hóa phục vụ công tác trưng bày tuyên truyền; tổng số tài liệu, hiện vật kiểm kê là 18.068 hiện vật, tổng số hiện vật bảo quản phòng ngừa 100%; tổng số tài liệu, hiện vật bảo quản trị liệu là 5.557 hiện vật.

Việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác quản lý các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã được tỉnh tập trung thực hiện. Bước đầu tỉnh thực hiện số hóa đối với các di tích loại 1: quy mô khoảng 500 - 1.500m2 và di tích loại 2: quy mô lớn hơn 1.500m2. Hiện nay tỉnh đã số hóa một số di tích tiêu biểu như: Nhà thờ bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh; di tích cây đa Sài Thị, huyện Khoái Châu; di tích Cây đa Ninh Thôn, huyện Ân Thi; số hoá 2.403 tài liệu Hán Nôm.

Trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể: Tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn tiến hành kiểm kê và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể bảo đảm theo quy định, trong 2 năm 2022 - 2023, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiến hành kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể tại 832/832 thôn, khu dân cư trên địa bàn tỉnh… Các cơ quan chức năng tỉnh Hưng Yên tích cực đẩy mạnh công tác phối hợp trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa: Sở Giáo dục và Đào tạo và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký chương trình phối hợp giai đoạn 2022 - 2026... do đó hầu hết các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh đã đưa nội dung văn hóa, lịch sử địa phương vào chương trình giảng dạy, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử địa phương cho thế hệ trẻ; học sinh được đăng ký tham gia các hoạt động ngoại khóa, dã ngoại trải nghiệm tại Bảo tàng, các di tích, đăng ký chăm sóc từ 1 - 2 di tích tiêu biểu tại địa phương. Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các trường, phòng giáo dục và đào tạo cấp huyện phối hợp với phòng văn hóa và thông tin, trung tâm văn hóa thể thao cùng cấp tổ chức các lớp ca trù thu hút 178 học sinh sinh viên tham gia; các lớp trống quân đã thu hút 234 học sinh sinh viên tham gia. Sở Khoa học và Công nghệ đã triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, gắn với Chương trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, di tích lịch sử gắn với phát triển du lịch tỉnh Hưng Yên: nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển du lịch nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Nghiên cứu, biên soạn lịch sử và số hóa di tích Cây đa và đền La Tiến phục vụ hoạt động quản lý di tích lịch sử cách mạng tỉnh Hưng Yên; nghiên cứu đề xuất bổ sung danh nhân tỉnh Hưng Yên; nghiên cứu đề xuất giải pháp tăng cường quản lý và phát huy giá trị các di tích quốc gia gắn với phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; nghiên cứu đề xuất các giải pháp huy động nguồn lực tài chính đầu tư phát triển du lịch văn hóa - lịch sử trên địa bàn huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên; nghiên cứu phát triển một số sản phẩm du lịch của tỉnh Hưng Yên giai đoạn đến năm 2030…

Về du lịch: Nhằm tăng cường, đẩy mạnh phát triển du lịch, trên cơ sở lấy di sản văn hóa làm trụ cột chính, nâng tầm giá trị của di sản văn hóa trong chiến lược định vị thương hiệu du lịch tỉnh và lựa chọn, đầu tư xây dựng thương hiệu cho những địa điểm, khu di tích tiêu biểu, tỉnh Hưng Yên đã tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch. Tỉnh phối hợp với các cơ quan báo, đài, tạp chí trung ương và địa phương tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu các điểm du lịch, di tích lịch sử văn hóa, lễ hội truyền thống và sản phẩm du lịch tiêu biểu, như: Phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam, Đài truyền hình kỹ thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hưng Yên, Báo Hưng Yên, Tạp chí Du lịch Việt Nam, Báo Du lịch Việt Nam… thực hiện chương trình “Hành trình di sản - Tết làng”; Hưng Yên điểm đến hấp dẫn; Phố Hiến - Hưng Yên vẻ đẹp xưa trong lòng thành phố;… xuất bản và tái bản hàng vạn ấn phẩm phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch, di sản văn hóa như: Hưng Yên - Di tích lịch sử văn hoá; Nhà tưởng niệm danh nhân Hưng Yên; Di tích lăng đá tỉnh Hưng Yên; Bảo vật Quốc gia tỉnh Hưng Yên; Cây Di sản tỉnh Hưng Yên; Lễ hội đền Phù Ủng, Hưng Yên - vùng quê văn hiến, Cẩm nang du lịch Hưng Yên, tập gấp, Bản đồ du lịch, đĩa DVD du lịch Hưng Yên… Hằng năm, xây dựng quầy thông tin du lịch tại các điểm di tích tiêu biểu, lễ hội lớn để cung cấp miễn phí ấn phẩm thông tin du lịch và giới thiệu đặc sản ẩm thực. Cổng thông tin du lịch thông minh tỉnh Hưng Yên https://hungyentourism.vn và trang web về du lịch Hưng Yên www.hungyentourism.com.vn được hình thành và duy trì hoạt động hiệu quả, thu hút đông đảo khách du lịch, nhà đầu tư quan tâm truy cập. Tích cực xúc tiến quảng bá du lịch Hưng Yên tại các hội chợ, sự kiện du lịch do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Du lịch và các tỉnh, thành phố tổ chức.

Hiện cơ cấu sản phẩm du lịch của Hưng Yên chủ yếu tập trung phát triển gắn với địa điểm di tích và lễ hội, như: Du lịch tham quan di tích lịch sử văn hóa, du lịch lễ hội dân gian truyền thống, du lịch sinh thái, du lịch làng nghề truyền thống… Tỉnh có 4 điểm được công nhận là điểm du lịch: điểm du lịch di tích đền Phù Ủng, huyện Ân Thi; điểm du lịch đền Dạ Trạch, huyện Khoái Châu; điểm du lịch đền Đậu An, huyện Tiên Lữ và điểm du lịch Trung tâm tinh hoa Làng nghề Việt, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang. Tỉnh triển khai khảo sát và xây dựng các chương trình du lịch về các điểm di tích lịch sử trong tỉnh như: Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến - Cụm di tích lịch sử Đa Hòa - Dạ Trạch (Khoái Châu) - Cụm di tích Tống Trân - Cúc Hoa, Cây đa và đền thờ La Tiến (Phù Cừ) - Cụm di tích đền Phù Ủng (Ân Thi); các làng nghề truyền thống như: làng nghề làm hương xạ Thôn Cao (thành phố Hưng Yên), làng nghề đan đó, rọ Thủ Sỹ (Tiên Lữ), làng nghề trồng hoa và cây cảnh (Văn Giang)… Xây dựng chương trình, tour, tuyến du lịch liên tỉnh như: Tuyến Hà Nội - Bắc Ninh - Hưng Yên - Hà Nam - Ninh Bình; tuyến du lịch chuyên đề lễ hội, tâm linh: Hà Nội - Đền ghênh - làng Nôm - chùa Thái Lạc (Hưng Yên) - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng Ninh; tuyến du lịch đường sông: Hà Nội - Hưng Yên (chùa Bồ Đề - đền Dầm - đền Đại lộ - đền Đa Hòa - khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến); Phố Hiến (Hưng Yên) - Chùa Hương (Hà Nội) - Tam chúc Ba Sao (Hà Nam)… Để khai thác nguồn lực du lịch dọc tuyến sông Hồng, tỉnh đã phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Xây dựng tuyến đường kết nối di sản văn hóa du lịch và phát triển kinh tế dọc sông Hồng, tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 9.275 tỷ đồng.

Hưng Yên tích cực liên kết hợp tác phát triển du lịch, kết nối phát huy giá trị di sản văn hóa với tỉnh, thành phố như: Ký kết Chương trình hợp tác phát triển du lịch giữa Hưng Yên với Hà Nội - Hà Nam - Nam Định; Hưng Yên - Vĩnh Phúc - Bắc Giang; Chương trình hợp tác phát triển du lịch giữa Hưng Yên với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng; Hải Phòng với Hưng Yên; Hưng Yên với Hải Phòng - Quảng Ninh - Hải Dương; Chương trình hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh giữa Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn với thành phố Hồ Chí Minh; Hưng Yên với Hà Nội - Vĩnh Phúc - Bắc Ninh - Hải Dương; Hưng Yên với Hải Dương; Hưng Yên với Nghệ An… ký liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp du lịch trong vùng.

Số lượng khách du lịch đến Hưng Yên tăng đều hằng năm: Năm 2021: Đón 22 nghìn lượt khách, trong đó khách quốc tế 800 lượt, khách nội địa 21,2 nghìn lượt; năm 2022: đón 450 nghìn lượt khách, tăng 204% so với năm 2021, trong đó khách quốc tế 5 nghìn lượt; năm 2023: đón 800 nghìn lượt khách, trong đó khách nội địa 795 nghìn lượt, khách quốc tế 5 nghìn lượt; 9 tháng đầu năm 2024, lượng khách ước đạt 1 triệu lượt, trong đó khách quốc tế trên 4.500 lượt. Tổng thu từ du lịch: Năm 2021 đạt 230 tỷ đồng (do dịch COVID-19 nên giảm 71% so với năm 2020); năm 2022 đạt 400 tỷ đồng (tăng 73% so với năm 2021); năm 2023 đạt 700 tỷ đồng (tăng 75% so với năm 2022); 9 tháng đầu năm 2024 ước đạt trên 600 tỷ đồng. Số lượng cơ sở lưu trú đạt 3.310 buồng, trong đó tỷ lệ buồng đạt chất lượng 3 sao đạt 35%. Tốc độ phát triển du lịch của tỉnh đạt 10 - 15%/năm. Bên cạnh đó, những năm gần đây, các khu đô thị mới hình thành với hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ tại huyện Văn Giang như: Khu đô thị Ecopark, Khu đô thị sinh thái Dreamcity (VinOcean Park 2), Khu đô thị Đại An (VinOcean Park 3) đã trở thành những địa điểm quen thuộc thu hút khách du lịch đến Hưng Yên trong ngày và dịp cuối tuần. Tại các khu đô thị này thường xuyên tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, giải trí, ẩm thực, hội chợ thu hút sự tham gia của hàng chục vạn khách/sự kiện.

Về làng nghề: Toàn tỉnh có 45 làng nghề đã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận (gồm cả làng nghề truyền thống và làng nghề mới). Các làng nghề hoạt động theo từng nhóm nghề khác nhau như: Chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản (17 làng); sản xuất đồ gỗ, mây tre đan (23 làng); thủ công mỹ nghệ (5 làng); xử lý, chế biến nguyên vật liệu (9 làng); sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh (7 làng); các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn (1 làng). Có tổng số 18.143 cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh trong làng nghề, gồm 17.821 hộ sản xuất, 289 doanh nghiệp, 17 hợp tác xã, 16 tổ hợp tác; tạo việc làm cho trên 45.700 lao động; doanh thu của các cơ sở trong làng nghề đạt trên 7.578 tỷ đồng.

Với vị trí địa lý thuận lợi, là địa phương có khá nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế di sản trong tương lai. Tuy nhiên, các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa để phát triển kinh tế di sản của tỉnh Hưng Yên còn nhiều khó khăn, hạn chế là rào cản làm cho di sản văn hóa Hưng Yên phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế vốn có, hiệu quả kinh tế di sản chưa cao như: Các khu điểm du lịch còn nhỏ lẻ; kết cấu hạ tầng du lịch còn hạn chế; một số khu vui chơi giải trí có quy mô hiện đại đang trong giai đoạn hoàn thiện... đã ảnh hưởng đến việc thu hút khách du lịch, cũng như không kéo dài được thời gian lưu trú của khách; chưa có các cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển du lịch; dịch vụ vận chuyển khách du lịch chưa nhiều, chất lượng chưa cao; ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc thực hiện các quy định về bảo tồn di sản văn hóa chưa cao. Nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, tôn tạo di tích còn khiêm tốn; công tác xã hội hóa chưa đáp ứng so với yêu cầu; việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể chưa được quan tâm đúng mức, còn di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ bị thất truyền. Tình trạng lấn chiếm, xâm phạm di tích, lợi dụng di sản văn hóa phi vật thể để thu lợi xảy ra tại một số nơi. Nhiều làng nghề truyền thống đã bị mai một hoặc chưa phát huy hết tiềm năng trong sản xuất, kinh doanh sản phẩm làng nghề và kết nối phát triển du lịch địa phương…

3. Tỉnh Hưng Yên đặt ra mục tiêu trong thời gian tới là tập trung bảo tồn và phát huy giá trị các di sản góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con người Hưng Yên vì sự phát triển bền vững; trong đó quan tâm đầu tư các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc tiêu biểu, tạo thành sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn; từng bước xây dựng Hưng Yên trở thành: Trung tâm di sản văn hóa đặc sắc tại khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước, một điểm đến an toàn, thân thiện và hấp dẫn; hướng đến mục tiêu đến năm 2030 tỉnh Hưng Yên phát triển nhanh, bền vững, trở thành tỉnh công nghiệp hiện đại và tầm nhìn đến năm 2050, Hưng Yên trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, là thành phố thông minh, giàu đẹp, văn minh, văn hiến, giàu bản sắc văn hóa, phát huy đầy đủ những giá trị cốt lõi của văn hóa Phố Hiến xưa. Thời gian tới, Hưng Yên tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đổi mới tư duy lãnh đạo, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, cơ quan quản lý nhà nước và toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa, của di sản văn hóa trong đổi mới và phát triển bền vững. Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phải được chú trọng tương xứng, hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội, không vì lợi ích kinh tế mà làm ảnh hưởng xấu hoặc dẫn đến nguy cơ huy hoại di sản. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân các văn bản chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh về phát triển văn hóa và bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn; Kết luận số 76-KL/TW ngày 4-6-2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX... Tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật Di sản văn hóa; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành bằng nhiều hình thức truyền thông phù hợp. Tích cực vận động nhân dân tham gia công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích thông qua các hoạt động lễ hội, sinh hoạt tín ngưỡng tại di tích, các cuộc sinh hoạt tổ nhân dân tự quản tại địa phương.

Hai là, định kỳ rà soát, kiểm kê hệ thống di tích của tỉnh theo quy đinh của Luật Di sản văn hóa; tổ chức nghiên cứu chuyên sâu các di tích lịch sử văn hóa, địa danh lịch sử có giá trị tiêu biểu, trên cơ sở đó lựa chọn những di tích đủ điều kiện đề nghị xếp hạng cấp quốc gia, cấp tỉnh. Hằng năm, bố trí nguồn ngân sách các cấp tương xứng với quy mô phát triển kinh tế của tỉnh, đồng thời xây dựng cơ chế huy động các nguồn lực của xã hội để đầu tư tu bổ, tôn tạo các di tích tiêu biểu của tỉnh trở thành những di sản có chất lượng cao về khoa học bảo tồn và môi trường văn hóa, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế du lịch. Căn cứ các quy hoạch bảo tồn, phát huy giá trị các di tích đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, xây dựng danh mục dự án tu bổ, tôn tạo di tích đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 và giai đoạn tiếp theo. Thực hiện đúng tiến độ và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nhà nước đầu tư và huy động xã hội hóa cho việc tu bổ, tôn tạo di tích. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật kết hợp phương pháp thi công truyền thống vào việc tu bổ, tôn tạo, phục dựng di tích. Thực hiện tốt việc nghiên cứu, bảo tồn các di sản văn hóa trong quá trình triển khai các dự án đầu tư xây dựng các công trình có ảnh hưởng đến di tích, di sản.

Ba là, tiếp tục triển khai việc điều tra, sưu tầm, nghiên cứu toàn diện các di sản văn hoá phi vật thể của tỉnh, nhất là những di sản tiêu biểu có nguy cơ bị thất truyền. Xây dựng phương án bảo tồn giá trị văn hóa đặc trưng của cộng đồng, không ngừng tái tạo và lưu truyền các di sản văn hóa phi vật thể từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác tại cộng đồng; hạn chế tối đa nguy cơ bị thất truyền, nhất là những di sản là tri thức dân gian do nghệ nhân cao tuổi nắm giữ nhưng tuổi đã cao. Tiếp tục lựa chọn những di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét đưa vào danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia như: lễ hội đình Quan Xuyên, huyện Khoái Châu; làng nghề đúc đồng Lộng Thượng, huyện Văn Lâm; làng nghề chạm bạc Huệ Lai, huyện Ân Thi... Từng bước số hóa, xây dựng hệ thống thông tin về di sản văn hóa phi vật thể. Thực hiện việc giáo dục, phổ biến rộng rãi di sản văn hoá phi vật thể thông qua tổ chức trưng bày, trình diễn, giới thiệu các nghi lễ, lễ hội, di sản văn hoá tiêu biểu tại Bảo tàng tỉnh và lưu động tại các địa phương. Hoàn thành việc khảo sát, điều tra, sưu tầm, lưu trữ, bảo quản, biên dịch, giới thiệu các tài liệu Hán Nôm. Đưa nội dung giảng dạy di sản văn hóa của địa phương vào bậc học phổ thông của tỉnh. Tổ chức các lớp truyền dạy, liên hoan, hội thi, giao lưu thực hành di sản văn hóa phi vật thể; thành lập và duy trì hoạt động có hiệu quả các câu lạc bộ ca trù, trống quân ở những địa phương có truyền thống. Có chính sách hỗ trợ, tôn vinh tổ chức, cá nhân, nghệ nhân có nhiều đóng góp cho hoạt động bảo tồn và thực hành, truyền dạy, phổ biến văn hóa phi vật thể; đề nghị phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú”, “Nghệ nhân nhân dân”. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn hóa, giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống tại các điểm tham quan du lịch là di tích. Thường xuyên phát động các cuộc thi tìm hiểu về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử tỉnh Hưng Yên, về vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Bốn là, nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc của Hưng Yên như du lịch tham quan di tích lịch sử văn hóa, làng nghề truyền thống, lễ hội, du lịch sinh thái cảnh quan đê sông Hồng, du lịch nghỉ dưỡng... Từng bước tạo dựng hình ảnh du lịch của Hưng Yên thông qua hoạt động xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch. Tích cực, chủ động huy động các nguồn vốn để triển khai các dự án đối với di tích có tiềm năng phát triển du lịch như: Phục dựng đô thị cổ Phố Hiến gắn với phát triển du lịch; Quy hoạch khu di tích Chử Đồng Tử - Tiên Dung; Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu vực làng Nôm, chùa Nôm; di tích quốc gia đặc biệt đền An Xá; đền Phù... Tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch ngang tầm quốc gia, khu vực; xây dựng đội ngũ thuyết minh, hướng dẫn viên du lịch có chất lượng tại các di tích lịch sử văn hóa. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư bằng những chính sách ưu đãi thu hút vốn để phát triển du lịch của tỉnh; khuyến khích, kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, các công trình vui chơi giải trí, nhà nghỉ, khách sạn bảo đảm tiêu chuẩn tại các khu du lịch gắn với di tích của tỉnh.

Năm là, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, quảng bá như xây dựng chuyên trang, chuyên mục về di sản văn hóa, giới thiệu những giá trị di sản, các tour, tuyến du lịch khai thác di sản. Thông qua các sự kiện, hội nghị, hội thảo, hội diễn, hội chợ, liên hoan; các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch ở khu vực, trong nước và quốc tế; các phương tiện truyền thông đại chúng, các nền tảng mạng xã hội vào việc quảng bá tiềm năng, giá trị của di sản. Từng bước đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ nhằm tăng hiệu ứng của di sản văn hóa, nhất là các di tích lịch sử; liên kết, hợp tác với các tổ chức, cá nhân để đầu tư mua sắm máy móc công nghệ hiện đại phục vụ trưng bày, triển lãm di sản văn hóa tại di tích, bảo tàng, đặc biệt là công nghệ thực tế ảo, số hóa hiện vật, tài liệu, di sản văn hóa phục vụ nhu cầu trải nghiệm, khám phá của du khách. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, tình yêu quê hương đất nước gắn với di sản văn hóa trên hệ thống thông tin đại chúng. Phối hợp với các hãng phim trong và ngoài nước xây dựng các chương trình, bộ phim về di sản văn hóa hoặc lồng ghép hình ảnh di sản văn hóa, du lịch Hưng Yên trong các cảnh quay, góp phần quảng bá di sản văn hóa của tỉnh.

Sáu là, khai thác vị trí giáp Thủ đô Hà Nội - trung tâm du lịch lớn cả nước, trung tâm vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc để phát triển hệ thống các khu di tích lịch sử gắn với phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch lễ hội; tăng cường hợp tác với các tỉnh, thành phố trong vùng và cả nước trên các nội dung: xây dựng cơ chế chính sách quản lý, phát triển du lịch; phát triển sản phẩm, quảng bá xúc tiến, đào tạo nhân lực du lịch; bảo tồn và phát triển sản phẩm và du lịch làng nghề./.