Đối ngoại quốc phòng với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

Đại tá, ThS. Nguyễn Đức Thắng Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự (Bộ Quốc phòng)
15:28, ngày 22-04-2015

TCCSĐT - Đối ngoại quốc phòng Việt Nam là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà nước Việt Nam. Mục tiêu của đối ngoại quốc phòng Việt Nam là thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nhằm góp phần vào công cuộc củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang, giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong gần 30 năm đổi mới đất nước, cùng với hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, ngoại giao nhân dân, hoạt động đối ngoại quốc phòng không ngừng được đẩy mạnh theo hướng phát triển sâu, rộng cả về phạm vi lẫn mức độ hợp tác với các quốc gia, các tổ chức, định chế quốc tế, góp phần từng bước đưa quốc phòng Việt Nam hội nhập thế giới. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, công tác đối ngoại quốc phòng đã tích cực, chủ động triển khai và đạt được những thành tựu quan trọng. Nội dung, hình thức quan hệ, hợp tác quốc phòng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác, trong đó có những nội dung mang tính đột phá, đóng góp hiệu quả vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, nâng cao tiềm lực và sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Hoạt động đối ngoại quốc phòng song phương được đẩy mạnh có trọng tâm, trọng điểm; trong đó chú trọng trao đổi đoàn cấp cao nhằm tăng cường nhận thức chung về các vấn đề cùng quan tâm, cũng như xây dựng và duy trì sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Các cơ chế đối thoại cấp lãnh đạo Bộ Quốc phòng và tham vấn cấp làm việc tiếp tục được thiết lập, nhằm trao đổi quan điểm, thống nhất và hiện thực hóa các nội dung hợp tác đã được ký kết. Đến nay, Bộ Quốc phòng đã mở 34 cơ quan Tùy viên Quốc phòng tại các nước, trong đó có cơ quan thường trú tại 29 nước và 5 nước kiêm nhiệm; đã có 45 nước đặt cơ quan Tùy viên Quốc phòng tại Việt Nam, trong đó có 24 nước thường trú và 21 nước kiêm nhiệm. Nhiều văn bản, thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng được ký kết, tạo cơ sở pháp lý để triển khai các hoạt động đối ngoại quốc phòng. Chỉ tính trong giai đoạn 2011 - 2013, chúng ta đã ký 50 văn bản hợp tác với 26 nước và tổ chức quốc tế.

Cùng với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng song phương, hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương tiếp tục có bước phát triển, đa dạng cả về hình thức và nội dung, ngày càng đi vào chiều sâu. Từ chỗ Việt Nam chỉ tham gia với tư cách là quan sát viên, khách mời danh dự, đến những năm gần đây chúng ta đã chủ động, tích cực tham gia có trách nhiệm; đã đưa ra những quan điểm, sáng kiến có giá trị tại các diễn đàn quốc phòng an ninh đa phương khu vực và quốc tế, như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Đối thoại Shangri-La… Thông qua các cơ chế đa phương về an ninh, quân sự, quốc phòng, nhất là trong khuôn khổ ASEAN, chúng ta đã nhận được sự đồng thuận và ủng hộ của các nước về quan điểm giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), Tuyên bố 6 điểm của ASEAN về Biển Đông, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và cùng với các nước tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC).

Thành tựu nổi bật trong hoạt động đối ngoại quốc phòng những năm qua là chúng ta đã tập trung đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước láng giềng có chung đường biên giới, với các nước trong khu vực; đưa quan hệ hợp tác quốc phòng với các đối tác chiến lược, đối tác quan trọng đi vào thực chất, phù hợp với lợi ích của tất cả các bên; đồng thời, thúc đẩy hợp tác thực chất với các nước bạn bè truyền thống. Hoạt động đối ngoại quốc phòng ở cấp chiến dịch được chú trọng với việc các đơn vị giáp biên đã chủ động tổ chức hoạt động tuần tra chung trên bộ, trên biển; tăng cường giao lưu, hợp tác, kết nghĩa cụm bản, giúp đỡ lẫn nhau với các địa phương, đơn vị của nước bạn, cùng nhau xây dựng và bảo vệ khu vực biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác và cùng phát triển, góp phần quan trọng củng cố, tăng cường mối quan hệ hữu nghị truyền thống, thân thiện và tin cậy lẫn nhau, cũng như trong việc bảo vệ biên giới, lãnh thổ quốc gia.

Không chỉ tăng cường đối thoại, Việt Nam luôn thể hiện tinh thần sẵn sàng hợp tác bằng những hành động thực tế, có hiệu quả. Đó là lần đầu tiên chúng ta cử lực lượng quân đội tham gia diễn tập về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa và quân y tại Bru-nây (6-2013); chủ trì tổ chức thành công Diễn tập thực binh ASEAN về ứng phó thảm họa và cứu trợ nhân đạo năm 2013 (ARDEX 13); tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc trong năm 2014; đăng cai và tổ chức thành công nhiều hội nghị đa phương trong khuôn khổ ASEAN về quân y, giao lưu sĩ quan trẻ… Những kết quả hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng là biểu hiện sinh động trách nhiệm của Việt Nam với việc xây dựng lòng tin chiến lược, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Có thể khẳng định, trong gần 30 năm đổi mới đất nước, hoạt động đối ngoại quốc phòng luôn kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam; đã thực sự trở thành một mặt trận ngoại giao quan trọng, góp phần tạo thế vững chắc cho hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, xây dựng vành đai an ninh, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho đất nước phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đối ngoại quốc phòng đã góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia; đồng thời, có những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của quân đội, nâng cao uy tín và vị thế của đất nước, của quân đội ta trên trường quốc tế.

Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đan xen giữa thời cơ và nguy cơ, đặc biệt là các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của nước ta để đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, với những âm mưu, thủ đoạn mới hết sức thâm độc, nguy hiểm, đã đặt ra yêu cầu mới ngày càng cao đối với công tác đối ngoại quốc phòng. Quá trình toàn cầu hóa tiếp tục sẽ dẫn tới hiện trạng các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, trở thành trung tâm địa chính trị - kinh tế mới của thế giới, thu hút mạnh mẽ sự gia tăng ảnh hưởng giữa các cường quốc cũng như các nước có liên quan. Trong năm 2015, Cộng đồng ASEAN sẽ được hình thành với ba trụ cột chính là chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội. Đây là những cơ hội lớn cho các nước trong khu vực mở rộng hợp tác, tranh thủ nguồn lực để phát triển, đồng thời cũng đặt ra những thách thức cho công tác đối ngoại quốc phòng. Đặc biệt, trước quan hệ đan xen lợi ích của các nước, nhất là quan hệ giữa các cường quốc, đã đặt ra không ít khó khăn cho công tác đối ngoại quốc phòng phải xử lý những vấn đề hết sức nhạy cảm trong quan hệ giữa Việt Nam với các cường quốc khu vực và thế giới.

Những diễn biến phức tạp của tình hình an ninh khu vực và thế giới đã và tiếp tục tác động mạnh mẽ đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích của quốc gia; đồng thời, tạo nên sự đan xen hết sức phức tạp trong quan hệ quốc tế, giữa đối tượng và đối tác. Vì vậy, đòi hỏi công tác đối ngoại quốc phòng phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo các phương châm, nguyên tắc, định hướng cơ bản của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới được Hội nghị Trung ương 8 khóa IX của Đảng đề ra, đó là phải: “kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế theo phương châm thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh;... tạo được môi trường thuận lợi và nâng cao vị thế quốc tế phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1). Đặc biệt, quán triệt sâu sắc đường lối, nguyên tắc, quan điểm, phương châm chỉ đạo, chính sách đối ngoại và chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị khóa XI, về hội nhập quốc tế, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trên cơ sở nắm vững đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới, với tinh thần “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khác”, đặc biệt là chủ trương “Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”(2) mà Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra, đối ngoại quốc phòng Việt Nam phải thực sự là công cụ sắc bén để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước hội nhập quốc tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực hiện nhất quán chủ trương đối ngoại của Đảng vừa tăng cường hợp tác, vừa đấu tranh, công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới phải luôn kiên định về mục tiêu, các nguyên tắc chiến lược; đồng thời, vận dụng linh hoạt, mềm dẻo về sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Xác định những nội dung, hình thức, biện pháp đối ngoại, hợp tác quốc tế về quốc phòng phù hợp với từng đối tác; xử lý tốt các mối quan hệ, không để bị đối đầu, cô lập, bị lệ thuộc; ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ có thể gây ra xung đột, chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, điều kiện quốc tế có lợi cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Các hoạt động đối ngoại quốc phòng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cần tăng cường phối hợp chặt chẽ với Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành, địa phương; tuân thủ đường lối đối ngoại của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và các thông lệ quốc tế. Kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại quốc phòng với đối ngoại của Nhà nước và nhân dân, giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa của các lực lượng để đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam. Không ngừng tăng cường củng cố thế trận quốc phòng Việt Nam trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trong đó đối ngoại quốc phòng trở thành một trong những lực lượng nòng cốt. Đó cũng chính là một kế sách hữu hiệu bảo vệ Tổ quốc từ xa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.

Các cơ quan chức năng của Nhà nước và Bộ Quốc phòng cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế hợp tác quốc phòng cả song phương và đa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho giải quyết các vụ việc phát sinh, không để các va chạm vượt ra ngoài tầm kiểm soát, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định và quan hệ hữu nghị giữa các nước. Đồng thời, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong các hoạt động đối ngoại quốc phòng; xác định các biện pháp hữu hiệu làm vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng hợp tác quân sự, quốc phòng để truyền bá các tư tưởng, luận điệu chống chế độ xã hội chủ nghĩa, chống phá lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ quân đội, hòng “phi chính trị hóa” quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.

Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đối ngoại quốc phòng phục vụ đắc lực nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng cần phải làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức về mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới. Làm rõ mục đích chiến lược trước mắt cũng như lâu dài của đối ngoại quốc phòng vừa phải duy trì cho được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, vừa phải giữ gìn, xây đắp tình hữu nghị, quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, trong khu vực cũng như trên thế giới. Đồng thời, đối ngoại quốc phòng phải phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ tăng cường quốc phòng và an ninh, xây dựng quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

Trong tổ chức thực hiện, công tác đối ngoại quốc phòng cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo có tính nguyên tắc trong đường lối đối ngoại của Đảng, đó là: giữ vững độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; với phương châm: tích cực, chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả; “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Xử lý đúng đắn mối quan hệ chiến lược giữa an ninh sinh tồn và an ninh phát triển. Tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin chiến lược, hiểu biết lẫn nhau, “thêm bạn, bớt thù”; kiên trì giải quyết các bất đồng và xung đột bằng các biện pháp hòa bình, trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Đẩy mạnh quan hệ song phương, ưu tiên với các nước láng giềng, các nước trong khu vực; đồng thời, chủ động tham gia các hoạt động đa phương về quốc phòng - an ninh khu vực và quốc tế, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, với lợi ích của quốc gia, dân tộc.

Để kịp thời thích ứng với những diễn biến mới của khu vực và thế giới, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, công tác đối ngoại quốc phòng cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao chất lượng công tác dự báo chiến lược, tham mưu đề xuất cho Đảng, Nhà nước, cho Quân ủy Trung ương và lãnh đạo Bộ Quốc phòng trong hoạch định chủ trương chiến lược, các chính sách đối ngoại quốc phòng và các biện pháp xử lý kịp thời, đúng đắn mối quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế cho phù hợp với bối cảnh quốc tế và khu vực và với quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Cần quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng có phẩm chất cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, tận tụy và tuyệt đối trung thành với Đảng, chế độ và nhân dân; nắm vững đường lối, chính sách quốc phòng, đối ngoại và nghiệp vụ công tác đối ngoại; có kiến thức về luật pháp quốc tế và trình độ ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới.

Bên cạnh việc nâng cao khả năng nắm bắt thông tin, nhất là thông tin dự báo chiến lược về tình hình thế giới và khu vực có liên quan đến quốc phòng và an ninh của Việt Nam, đối ngoại quốc phòng cần tăng cường công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, các cấp để phân tích, xử lý thông tin kịp thời, hiệu quả. Thông qua mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp tác đối ngoại quốc phòng, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, đối ngoại quốc phòng nhằm tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân ta với quân đội và nhân dân các nước; làm cho dư luận, nhân dân, quân đội các nước hiểu rõ hơn đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, những thành tựu của công cuộc đổi mới và đặc biệt về hơn 70 năm truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng./.

--------------------------------------------

(1). Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 33

(2). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 233