Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thúc đẩy động lực tăng trưởng mới - góc nhìn từ thực tiễn phát triển kinh tế di sản của tỉnh Quảng Ninh
TCCS - Nhằm góp phần thúc đẩy động lực tăng trưởng mới, đồng thời, trên cơ sở đánh giá thực trạng, tiềm năng phát triển kinh tế di sản tại tỉnh Quảng Ninh để đưa ra các định hướng, giải pháp phát triển nguồn lực này trong thời gian tới, ngày 21-12-2024, tại tỉnh Quảng Ninh, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản, Hội đồng Lý luận Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Ninh đồng tổ chức Hội thảo khoa học: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thúc đẩy động lực tăng trưởng mới - góc nhìn từ thực tiễn phát triển kinh tế di sản của tỉnh Quảng Ninh”.
Chủ trì hội thảo gồm các đồng chí: GS, TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh; PGS, TS Lê Hải Bình, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; PGS, TS Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng Biên tạp Tạp chí Cộng sản; Đặng Xuân Phương, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh.
Tham dự hội thảo có các đồng chí trong Thường trực Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh; lãnh đạo các ban, bộ, ngành trung ương; các nhà khoa học, chuyên gia; lãnh đạo một số sở, ngành, địa phương trong cả nước.
Với tư duy vượt trước và đột phá phát triển mạnh mẽ, trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa trên ba trụ cột: thiên nhiên, con người, văn hóa. Tỉnh đã dành nhiều nguồn lực đầu tư, phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong vùng để tu bổ, tôn tạo và làm gia tăng giá trị của các di sản, góp phần đưa các di sản trở thành một động lực mới, quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh trong bảo tồn và phát triển các di sản trở thành động lực phát triển là bài học có giá trị đối với các địa phương khác trên cả nước.
Phát biểu chào mừng hội thảo, đồng chí Vũ Đại Thắng nhấn mạnh, Quảng Ninh được ví như “một Việt Nam thu nhỏ”, địa phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh, giá trị riêng biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh từ những yếu tố “thiên tạo” và “nhân tạo” như vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, vùng mỏ, địa chất, địa mạo, di sản Yên Tử gắn với Phật giáo Trúc Lâm, mạng lưới 630 di tích lịch sử - văn hóa; yếu tố thuộc về cốt cách, con người Quảng Ninh, nhất là truyền thống “Kỷ luật và đồng tâm” của Vùng Mỏ anh hùng... Những yếu tố này không chỉ tạo cơ hội phát triển dịch vụ tổng hợp hiện đại ngày càng giữ vai trò chủ đạo, phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn mà còn tạo nền tảng xây dựng một nền kinh tế di sản bền vững. Không chỉ góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, lịch sử mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, du lịch và xã hội.
Phát biểu chỉ đạo và đề dẫn hội thảo, GS, TS Nguyễn Xuân Thắng khẳng định, Quảng Ninh là một địa phương có nhiều sáng kiến đột phá, kinh nghiệm quý báu và tinh thần đổi mới sáng tạo trong việc khai thác hiệu quả các lợi thế và nguồn lực để phát triển. Hội thảo này là sáng kiến thiết thực, cụ thể hóa quan điểm của Đảng về văn hóa là nguồn lực, sức mạnh nội sinh và động lực quan trọng cho phát triển nhanh và bền vững đất nước; thể hiện một cách tiếp cận mới về việc hoán chuyển giá trị di sản trở thành nguồn lực, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội trong thực tiễn sinh động của tỉnh Quảng Ninh, góp phần xây dựng tỉnh Quảng Ninh trở thành tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại, cùng cả nước vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc…
Theo GS, TS Nguyễn Xuân Thắng, với tư duy vượt trước và đột phá phát triển mạnh mẽ, trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa trên ba trụ cột: thiên nhiên, con người, văn hóa. Tỉnh đã dành nhiều nguồn lực đầu tư, phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong vùng để tu bổ, tôn tạo và làm gia tăng giá trị của các di sản, góp phần đưa các di sản trở thành một động lực mới, quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh trong bảo tồn và phát triển các di sản trở thành động lực phát triển là bài học có giá trị đối với các địa phương khác trên cả nước… Việc xác định con đường và giải pháp hiệu quả để tỉnh Quảng Ninh hiện thực hóa các mục tiêu phát triển không chỉ mang ý nghĩa riêng cho địa phương, mà còn góp phần quan trọng vào việc đạt được các mục tiêu chiến lược của đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn 2045, như tinh thần trong Văn kiện Đại hội XIII và dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng.
GS, TS Nguyễn Xuân Thắng đánh giá cao việc hội thảo mạnh dạn đặt ra cách tiếp cận kinh tế di sản - một góc nhìn mới mẻ, rất thú vị và đầy tiềm năng trong bối cảnh Việt Nam. Kinh tế di sản là phạm trù kinh tế đề cập việc khai thác và sử dụng các giá trị văn hóa, lịch sử và tự nhiên của di sản để không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn bảo tồn và phát huy những giá trị đó một cách bền vững. Điều cốt lõi của kinh tế di sản là sự gắn kết hài hòa giữa bảo tồn và phát triển. Đây không chỉ là việc khai thác giá trị kinh tế, mà còn là trách nhiệm bảo vệ các di sản cho các thế hệ tương lai, thông qua sự kết hợp chặt chẽ giữa bảo tồn và phát huy các yếu tố văn hóa, lịch sử và tự nhiên với tăng trưởng kinh tế. Kinh tế di sản còn tạo ra giá trị gia tăng một cách bền vững, trong đó di sản được chuyển hóa thành tài sản kinh tế được thực hiện qua các hoạt động, như du lịch, giáo dục, sáng tạo nghệ thuật, công nghiệp và dịch vụ văn hóa. Tuy nhiên, sự phát triển này đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng để tránh khai thác quá mức hoặc làm mất đi giá trị nguyên bản của di sản.
Thực tế, nhiều quốc gia trong khu vực đã khai thác tiềm năng kinh tế di sản rất thành công, thu hút được lượng lớn khách du lịch và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế địa phương, tạo ra một mô hình phát triển vừa hiện đại, vừa đậm nét văn hóa truyền thống. Đây chính là bài học quý giá mà chúng ta có thể tham khảo và vận dụng.
GS, TS Nguyễn Xuân Thắng cho rằng, thực tiễn phát triển kinh tế di sản của tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua cho thấy tư duy vượt trước của tỉnh, để lại nhiều kinh nghiệm quý cho các địa phương trong cả nước:
Một là, tỉnh đã thể hiện tư duy đột phá và tầm nhìn chiến lược về một mô hình phát triển bền vững, rõ nét ngay từ các quy hoạch chiến lược của tỉnh, gắn liền với quá trình chuyển đổi từ “kinh tế nâu” sang “kinh tế xanh”. Lấy trọng tâm là di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, tỉnh đã định hình các chính sách phát triển một cách dài hạn, không chỉ khai thác tiềm năng du lịch mà còn đặt ưu tiên cao vào việc gìn giữ các giá trị văn hóa, lịch sử và bảo vệ môi trường.
Hai là, tỉnh đã tiên phong trong việc huy động nguồn lực và áp dụng hiệu quả các mô hình đối tác công - tư (PPP) để phát triển kinh tế di sản, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông gắn liền với hạ tầng du lịch và bảo tồn di sản. Tỉnh đã thu hút được các doanh nghiệp lớn đầu tư vào các dự án chiến lược, như sân bay, cảng tàu du lịch, khu nghỉ dưỡng cao cấp và công viên sinh thái gắn liền với di sản vịnh Hạ Long. Chính quyền tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, cũng như phối hợp chặt chẽ với khu vực tư nhân trong công tác bảo tồn di sản, bảo đảm cân bằng giữa phát triển kinh tế và gìn giữ các giá trị văn hóa, thiên nhiên.
Ba là, tỉnh đã đặt cộng đồng địa phương vào vị trí trung tâm trong chiến lược bảo vệ, quản lý và khai thác di sản, tạo ra mối quan hệ gắn kết bền vững giữa người dân và di sản. Thông qua các chương trình tuyên truyền, đào tạo và hỗ trợ sinh kế, tỉnh đã nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị văn hóa, lịch sử và môi trường của di sản. Người dân địa phương được khuyến khích tham gia trực tiếp vào các hoạt động, như bảo vệ cảnh quan, quản lý điểm du lịch và phát triển sản phẩm đặc trưng gắn với di sản, từ đó không chỉ gìn giữ giá trị nguyên bản mà còn cải thiện sinh kế.
Bốn là, tỉnh đã tiên phong ứng dụng công nghệ và đẩy mạnh chuyển đổi số trong phát triển kinh tế di sản, tạo bước đột phá trong quản lý và quảng bá, truyền thông giá trị di sản. Tỉnh đã xây dựng cơ sở dữ liệu số về các di sản văn hóa và thiên nhiên, giúp quản lý thông tin một cách hệ thống, minh bạch và khoa học; đồng thời, thông qua các nền tảng trực tuyến, tích hợp công nghệ hiện đại mang đến trải nghiệm sống động cho du khách. Những nỗ lực này không chỉ nâng cao hiệu quả bảo tồn và khai thác di sản mà còn mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường du lịch quốc tế, khẳng định tầm nhìn chiến lược của tỉnh Quảng Ninh trong thời đại số hóa.
GS, TS Nguyễn Xuân Thắng khẳng định, chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò quan trọng của di sản. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, luật pháp và chính sách khẳng định mạnh mẽ vai trò của các di sản văn hóa và thiên nhiên trong sự nghiệp phát triển đất nước; đồng thời, triển khai nhiều chương trình, kế hoạch nhằm bảo vệ và khai thác giá trị di sản một cách hợp lý, bền vững đạt được những kết quả to lớn, rất đáng tự hào.
Các di sản văn hóa và thiên nhiên đã phát huy vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Với quốc tế, các di sản góp phần lan tỏa sức mạnh mềm Việt Nam với bạn bè quốc tế. Ở trong nước, các di sản đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công tác đối ngoại và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Di sản văn hóa và thiên nhiên, trong một số trường hợp là căn cứ quan trọng để xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển của địa phương. Bảo tồn, phát huy giá trị di sản thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, du lịch, chuyển đổi sinh kế bền vững cho cộng đồng trong vùng di sản, tạo ra chuỗi giá trị giá tăng thúc đẩy nông nghiệp và các ngành dịch vụ, sản xuất, kinh doanh khác.
Tuy nhiên, theo GS, TS Nguyễn Xuân Thắng, bên cạnh những kết quả to lớn, rất đáng tự hào đó, cần thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, bất cập đang tồn tại, như ở một số nơi, vai trò của di sản là nguồn lực và động lực cho phát triển chưa được nhận thức đầy đủ; chưa xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, nhất là trong liên kết vùng; việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa về cơ bản vẫn được xem là một nhiệm vụ của ngành văn hóa; nguồn lực đầu tư cho việc bảo tồn, phát huy giá trị của các di sản văn hóa và thiên nhiên còn hết sức hạn chế; giá trị kinh tế của di sản chưa được xem xét một cách thỏa đáng; cách tiếp cận liên ngành kinh tế học di sản đối với các di sản văn hóa và thiên nhiên còn chưa được quan tâm đúng mức.
Từ thực tiễn và kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh, GS, TS Nguyễn Xuân Thắng đề nghị các nhà khoa học, các đại biểu tập trung thảo luận một số vấn đề cốt lõi:
Thứ nhất, làm sáng tỏ nhận thức về kinh tế di sản là một động lực quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội. Cần tiếp cận di sản một cách toàn diện hơn, cả ở khía cạnh tinh thần và những giá trị hiện thực. Nhiều di sản văn hóa và thiên nhiên đã trở thành nguồn lực quý giá, góp phần phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp văn hóa, như du lịch, thiết kế, điện ảnh… Không chỉ là những biểu tượng, hình ảnh hay vật thể đại diện cho quá khứ, di sản đã và đang tham gia tích cực vào nền kinh tế, trở thành nguồn động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Di sản là tài sản vô giá, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác; vì vậy, cần được gắn bó chặt chẽ với đời sống cộng đồng, chuyển hóa tiềm năng vốn có thành động năng phát triển. Nói cách khác, cần nhìn nhận di sản từ góc độ kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường để đánh giá đúng vai trò và tầm vóc của nó trong sự nghiệp phát triển. Không chỉ mang lại giá trị kinh tế tự thân, di sản còn tạo ra chuỗi giá trị gia tăng, thậm chí kết nối và thúc đẩy sự phát triển của các ngành và lĩnh vực kinh tế.
Thứ hai, phát huy vai trò của các chủ thể trong phát triển kinh tế di sản. Cần phát huy mạnh mẽ vai trò và sự tham gia của các bên liên quan trong lĩnh vực này, bao gồm nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo thông qua việc xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách phù hợp, cũng như bố trí nguồn lực để hỗ trợ phát triển. Doanh nghiệp giữ vai trò đầu tư, khai thác và phát huy giá trị kinh tế từ di sản. Cộng đồng dân cư vừa tham gia quản lý di sản, vừa là khách hàng trực tiếp hoặc gián tiếp của các sản phẩm, dịch vụ kinh tế di sản. Mối quan hệ giữa các chủ thể này phải được định hình trên nền tảng hành lang pháp lý rõ ràng và các chuẩn mực văn hóa phù hợp. Vai trò của từng chủ thể đều mang tính thiết yếu, nhưng thách thức lớn nằm ở việc xác định và cân bằng quyền lợi, trách nhiệm, cũng như lợi ích giữa các bên. Nếu không bảo đảm sự hài hòa này, nguy cơ xảy ra xung đột là rất lớn; và khi đó, không chỉ giá trị di sản bị tổn hại mà cả quá trình phát triển kinh tế di sản cũng sẽ bị kìm hãm.
Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về nguồn lực phát triển kinh tế di sản. Trước đây, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thường được xem là trách nhiệm chính của ngành văn hóa, trong khi sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp chỉ ở mức hạn chế, thậm chí mang tính thiện nguyện. Điều này phản ánh rõ qua các chính sách về bảo tồn di sản, vốn chưa thực sự khuyến khích sự tham gia mạnh mẽ của các bên liên quan. Tuy nhiên, khi hướng tới phát triển kinh tế di sản, cần điều chỉnh thể chế và chính sách để phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trường. Nhà nước vẫn giữ vai trò kiến tạo và định hướng, nhưng phải tạo điều kiện cho sự tham gia hiệu quả của các thành phần kinh tế. Đầu tư của nhà nước đóng vai trò như “vốn mồi”, kích thích và dẫn dắt các nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh cho thấy, việc thúc đẩy PPP sẽ là chìa khóa để phát triển kinh tế di sản bền vững, vừa phát huy giá trị di sản, vừa tạo động lực tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, tiếp tục làm sáng tỏ, sâu sắc hơn kinh nghiệm phát triển kinh tế di sản của tỉnh Quảng Ninh có thể nhân rộng ra cả nước. Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực to lớn nhưng tỉnh Quảng Ninh vẫn chưa thể khai thác, phát huy tối đa tiềm năng kinh tế di sản của tỉnh. Một số di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chưa được nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị một cách hiệu quả, thậm chí bị đe dọa bởi quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và khai thác du lịch ồ ạt, dẫn đến nguy cơ mất đi giá trị nguyên bản. Tỉnh vẫn còn thiếu các sản phẩm, dịch vụ đa dạng và chất lượng cao để kéo dài thời gian lưu trú và chi tiêu của du khách. Sự gắn kết giữa di sản văn hóa với các ngành kinh tế khác, như du lịch, thương mại và công nghiệp sáng tạo còn hạn chế. Nhận thức của người dân về giá trị và trách nhiệm bảo tồn di sản chưa đồng đều, dẫn đến tình trạng khai thác thiếu bền vững.
Bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế gia tăng các cơ hội quảng bá, truyền thông và marketing về di sản, song cũng đặt ra yêu cầu đổi mới toàn diện phương thức, chuẩn mực phục vụ người dân, doanh nghiệp và phát triển kinh tế di sản. Từ đó, GS, TS Nguyễn Xuân Thắng yêu cầu: Một mặt, tỉnh Quảng Ninh cần học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình phát triển kinh tế di sản của thế giới; mặt khác, có thể trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm của mình với các địa phương khác trong cả nước, tạo nên hệ sinh thái kinh tế di sản để cùng phát triển bền vững. Từ những yêu cầu chung trong phát triển kinh tế di sản đến những cơ hội, thách thức và vấn đề đặt ra trong thực tiễn của tỉnh Quảng Ninh đều có ý nghĩa rất quan trọng để định hình cho một xu hướng phát triển mới; đó là: văn hóa là nền tảng, nguồn lực nội sinh và động lực quan trọng cho sự phát triển.
Trong quá trình chuẩn bị, Ban Tổ chức đã nhận được gần 80 bài tham luận của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà lãnh đạo, quản lý ở các lĩnh vực khác nhau. Hội thảo chia làm 2 phiên. Ở phiên thứ nhất: Những vấn đề lý luận chung về kinh tế si sản, TS Hoàng Đạo Cương, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với tham luận “Phát triển kinh tế di sản ở Việt Nam: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra”; TS Phùng Quốc Hiển, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội với tham luận “Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị kinh tế di sản từ góc nhìn quản trị vùng và địa phương”; GS, TS Đinh Xuân Dũng với tham luận “Vai trò chủ thể của nhân dân trong phát triển kinh tế di sản ở tỉnh Quảng Ninh”; PGS, TS Trần Đình Thiên với tham luận “Kinh tế di sản như nguồn vốn”; Đặng Xuân Phương, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh với tham luận “Kinh tế di sản - một động lực tăng trưởng mới vì sự phát triển nhanh, bền vững của tỉnh Quảng Ninh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” đã làm rõ những vấn đề xung quanh khái niệm, vị trí, vai trò, những yếu tố ảnh hưởng và kinh nghiệm các địa phương và quốc gia trên thế giới trong phát triển kinh tế di sản - động lực tăng trưởng quan trọng trong xu thế phát triển xanh trên thế giới. Bên cạnh đó, các tham luận đã phân tích thực trạng phát triển kinh tế di sản tại tỉnh Quảng Ninh thời gian qua, trong đó, đánh giá được thành tựu, hạn chế cùng các nguyên nhân của các thành tựu, hạn chế đó, đồng thời làm rõ những vấn đề đặt ra, phát hiện những điểm nghẽn, các mâu thuẫn, lực cản trong phát triển kinh tế di sản.
Ở phiên thứ hai, thảo luận bàn tròn “Tháo gỡ điểm nghẽn, phát huy các giá trị di sản cho phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh Quảng Ninh”. Sau khi TS Lê Minh Quang, kiến trúc sư, chuyên gia quy hoạch và kinh tế di sản trình bày “Mô hình kinh tế di sản: Từ khái niệm đến thực tiễn và trường hợp Hạ Long”, các địa biểu: Nguyễn Thị Hạnh, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh; Nguyễn Trùng Khánh, Cục trưởng Cục Du lịch quốc gia Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; PGS, TS Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; TS Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế, Bộ Tài chính; Cao Văn Kiên, Tổng Giám đốc Tập đoàn CEO đã có nhiều trao đổi cùng các đại biểu khác tại hội thảo. Nhiều ý kiến đại biểu, chuyên gia cho thấy, Việt Nam đã có các chính sách, chiến lược để phát triển ngành du lịch văn hóa, như Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035 vừa được Quốc hội thông qua phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 162/2024/QH15, ngày 27-11-2024; Chiến lược Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1755/QĐ-TTg, ngày 8-9-2016,… Tuy nhiên, có một thực tế, mặc dù xác định kinh tế di sản là một động lực tăng trưởng mới, nhưng rõ ràng về phương pháp, cách thức thực hiện vẫn đang còn nhiều “điểm nghẽn”, cần tháo gỡ cả về nhận thức lý luận và thực tiễn triển khai.
Nhiều đại biểu cho rằng, trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của nhiều nước đã trải qua thời kỳ khởi đầu không mấy thuận lợi, đó là những hạn chế về các nguồn lực, từ nguồn lực tài chính đầu tư còn hạn hẹp, trong đó có đầu tư phát triển khoa học - công nghệ - vốn có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế di sản, đến nguồn lực con người chưa được đào tạo, bồi dưỡng các kỹ năng, khả năng cần thiết đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế di sản…
Phát biểu kết luận hội thảo, PGS, TS Lê Hải Bình trân trọng cảm ơn đại biểu, các chuyên gia, nhà khoa học, những người bằng thực tế đã đem những giá trị tri thức và đặc biệt là những tâm huyết với đất nước, tỉnh Quảng Ninh và kinh tế di sản đến hội thảo hôm nay.
PGS, TS Lê Hải Bình cho biết, sau hội thảo, Ban Tổ chức sẽ xây dựng báo cáo tư vấn, làm cơ sở khoa học - thực tiễn tham khảo cho Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh hoạch định chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế di sản; đóng góp một số nội dung về công nghiệp văn hóa, động lực phát triển... với Tổ Biên tập Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng./.
Quản trị di sản bền vững để góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh  (21/12/2024)
Bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội hướng tới mục tiêu phát triển bền vững theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng  (20/12/2024)
Hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế di sản tỉnh Quảng Ninh  (19/12/2024)
Để các sản phẩm thủ công nghiệp đóng góp phát triển kinh tế di sản tỉnh Quảng Ninh  (19/12/2024)
Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế di sản tỉnh Quảng Ninh  (18/12/2024)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển