Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, vì lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh mới
TCCS - Xuyên suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã để lại cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc. Trong bối cảnh mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định, phát triển quan điểm về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, vì lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là di sản quý giá, là một trong những bài học lớn, xuyên suốt của Đảng ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thông qua những triết lý của Người, có thể thấy rõ việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những đặc điểm quan trọng của bản sắc và trường phái ngoại giao Việt Nam. Bởi lẽ những nội hàm cơ bản của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đều bắt nguồn từ triết lý và truyền thống ngoại giao của ông cha ta. Song song với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đưa Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy chung của thời đại, gắn tự lực, tự cường với đoàn kết quốc tế, đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu tạo nên bước phát triển mới cho nền ngoại giao nước nhà.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, một số nhà trí thức yêu nước cũng nhìn ra sự khác biệt giữa phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Song chủ trương cầu ngoại viện của các bậc tiền bối đều không đạt thành công. Chứng kiến các phong trào yêu nước của ông cha, cùng với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận ra hạn chế về đường hướng của các nhà trí thức yêu nước đi trước. Người cho rằng, cách mạng nước ta muốn thành công phải dựa vào nội lực là chính, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(1); đồng thời, cần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của thế giới... Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn(2). Người nhấn mạnh, sức mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn sức mạnh thời đại là nguồn lực bên ngoài, góp phần làm cho sức mạnh dân tộc được tăng lên và chỉ phát huy tác dụng thông qua nhân tố bên trong, đó là sức mạnh dân tộc(3).
Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân tộc, năm 1911, Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Trong những năm tháng bôn ba khắp năm châu, thông qua những cuộc mít-tinh hay các diễn đàn quốc tế, Người đã truyền tải tiếng nói của dân tộc Việt Nam đến những người cùng cảnh ngộ, giành được sự đồng cảm của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Đặc biệt, Người đã gửi đến Hội nghị Véc-xây (tháng 6-1919) bản “Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam”, vạch trần tội ác của thực dân Pháp, làm cho nhân dân Pháp và thế giới phải chú ý đến tình hình Việt Nam và Đông Dương.
Ngay cả khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đang diễn ra khốc liệt, Người cũng chủ trương cần phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ(4). Có thể khẳng định, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù là một trong những bài học quan trọng, xuyên suốt và mang tính thời sự sâu sắc nhất giúp đất nước giữ vững độc lập, tạo điều kiện để phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu trong bối cảnh mới.
Thực tiễn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại qua tiến trình lịch sử Việt Nam: Từ tư duy đến hành động
Có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo, phù hợp với bối cảnh và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn, góp phần mang lại những thành tựu to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Trước năm 1945, Đảng ta đã thành công trong việc kết hợp phong trào yêu nước, đại đoàn kết dân tộc với phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng thế giới, bước đầu đưa cách mạng Việt Nam gắn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam có mối quan hệ khăng khít với cách mạng thế giới. Bên cạnh đó, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, củng cố và huy động khối đại đoàn kết toàn dân.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đã đề ra và thực hiện nhất quán chủ trương “THỐNG NHẤT BÊN TRONG”(5), “TÌM BẠN BÊN NGOÀI”(6), giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đồng thời tranh thủ các xu thế và đặc điểm mới hình thành trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh để khẳng định và bảo vệ thành quả cách mạng. Trong đấu tranh cách mạng, Đảng ta luôn nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh”(7), “dựa vào sức mình là chính”(8), chủ trương “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(9). Trước những xu thế mới nổi trên thế giới lúc bấy giờ, như công nhận quyền tự quyết, quyền độc lập, quyền bình đẳng giữa các quốc gia, Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt và tận dụng thành công những xu thế này, đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng quốc tế để tiến hành các nhiệm vụ cách mạng.
Đặc biệt, trong giai đoạn 1948 - 1949, cục diện thế giới bắt đầu có những biến chuyển hết sức sâu sắc, nhất là việc hệ thống xã hội chủ nghĩa bắt đầu phát triển trên cấp độ toàn cầu. Chiều sâu trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước trên thế giới được tạo ra thông qua việc cách mạng Việt Nam đã gắn chặt hơn với cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, như Liên Xô, Trung Quốc; chủ trương mở rộng quan hệ với các dân tộc mới giành được độc lập, như In-đô-nê-xi-a, Ấn Độ...; tạo liên minh đoàn kết chiến đấu Việt - Miên - Lào, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân các nước phương Tây yêu chuộng hòa bình, đồng thời tham gia các hội nghị hòa bình thế giới nhằm lên án đế quốc, gây sức ép để chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội lực là nhân tố quyết định, còn ngoại lực chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một mặt, để tăng cường sức mạnh dân tộc, Đảng ta chủ trương thúc đẩy lao động, phát triển kinh tế, văn hóa, hàn gắn vết thương chiến tranh, đồng thời khích lệ ý chí của đồng bào hai miền chiến đấu chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; mặt khác, để phát huy sức mạnh thời đại, Đảng ta chủ trương gắn cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của dân tộc với dòng chảy chính của xu thế cách mạng toàn cầu, đấu tranh cho những mục tiêu cao của thời đại, vận dụng những thắng lợi của phong trào cách mạng thế giới để thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến tới thắng lợi mạnh mẽ. Bên cạnh đó, Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự giúp đỡ, viện trợ quốc tế để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, là hậu phương vững mạnh cho chiến trường miền Nam, đồng thời tranh thủ tối đa sự ủng hộ quốc tế trong việc thống nhất đất nước. Tiêu biểu là, tăng cường đoàn kết hợp tác toàn diện và chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc, các nước trong khối xã hội chủ nghĩa; thắt chặt quan hệ với Lào, Cam-pu-chia; tăng cường tình đoàn kết chiến đấu với các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Á - Phi - Mỹ La-tinh; đồng thời, đưa cuộc đấu tranh của dân tộc vào các tổ chức quốc tế, như Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết và các tổ chức khu vực. Bằng sự linh hoạt và khéo léo, Đảng ta đã huy động thành công sức mạnh và tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước.
Trong thời kỳ đổi mới và xây dựng đất nước, tiếp nối tinh thần và thành tựu to lớn từ hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm quý báu, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Các Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng qua các kỳ đại hội(10) cũng đề cập rõ và cụ thể về tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là bài học xuyên suốt, đồng thời cũng là nhiệm vụ của Đảng và nhân dân Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển; xu thế liên kết khu vực và chủ nghĩa đa phương ngày càng phát triển, Đảng ta đã đề ra chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tranh thủ hợp tác với các đối tác trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Với chủ trương trên, Việt Nam đã tạo dựng chiều sâu trong quan hệ với các nước, dần mở cửa đón nhận các nguồn đầu tư nước ngoài, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia trên thế giới, từng bước hội nhập quốc tế trên cơ sở lấy hội nhập kinh tế làm trọng tâm. Cụ thể, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),... Ngoài ra, không chỉ là thành viên, Việt Nam còn đảm nhận trọng trách quan trọng trong nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009, 2020 - 2021), Chủ tịch ASEAN (năm 2010, 2020)... Cùng với đó, Việt Nam không ngừng nỗ lực củng cố tiềm lực trong nước, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, củng cố quốc phòng - an ninh, ổn định trật tự xã hội, cũng như bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của đất nước.
Có thể thấy, mặc dù tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có sự thay đổi qua từng giai đoạn, song tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vẫn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các thời kỳ lãnh đạo, hoạt động của Đảng, là kim chỉ nam cho các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế trong những giai đoạn tiếp theo.
Vận dụng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
Bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải hiểu đúng và nắm vững nội hàm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam.
Về sức mạnh dân tộc, Nghị quyết Trung ương 8, ngày 12-7-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX), “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã xác định: ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài, đồng thời nhấn mạnh, sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định(11). Trong thời kỳ này, sức mạnh dân tộc được xem là “nội lực” - yếu tố bên trong của đất nước. Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân, đế quốc, sức mạnh dân tộc được xác định là tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, lòng căm thù giặc ngoại xâm... Đó là nguồn sức mạnh chính, to lớn giúp Việt Nam chiến thắng kẻ thù xâm lược, là động lực để tăng gia sản xuất, tiến lên xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, cách hiểu về sức mạnh dân tộc đã được hoàn thiện và đầy đủ hơn. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị...”(12). Cách hiểu này có nội hàm rộng hơn, Đảng ta nhấn mạnh đến yếu tố “sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc” với vấn đề căn cốt là đại đoàn kết dân tộc - là sự tổng hòa tiềm lực của đất nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh được tạo nên bởi quy mô và chất lượng dân số cả nước, được thể hiện ở sự tổng hợp của cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần; giữa “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”. Sức mạnh tổng hợp quốc gia còn là sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước; của “cả hệ thống chính trị” từ tổ chức bộ máy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Xét tổng thể về “sức mạnh cứng”, sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực của Việt Nam ngày càng được nâng cao; đồng thời, Việt Nam đang được định vị ở nhóm giữa trong thang bảng sức mạnh toàn cầu với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những chỉ số phát triển của Việt Nam khi so sánh với các quốc gia tầm trung không còn chênh lệch lớn. Trong khi đó, “sức mạnh mềm” của Việt Nam được thể hiện qua nhiều yếu tố, từ những giá trị văn hóa, đến thể chế kinh tế, chính trị và cả các chính sách đối nội, đối ngoại,... Trong tổng thể đó, văn hóa được coi là một trong những sức mạnh nội tại đặc biệt. Năm 2007, Giáo sư Giô-xép Nai (Đại học Harvard, Mỹ) khi đến Việt Nam đã nhận định: “Những điểm làm nên sức hấp dẫn nhất của sức mạnh mềm Việt Nam hiện nay là tinh thần tự chủ, độc lập dân tộc, chính sách phát triển kinh tế và nền văn hóa, trong đó văn hóa của Việt Nam luôn hấp dẫn và có sức lôi cuốn các nước phương Tây”(13). Một điểm quan trọng khác khi đề cập đến “sức mạnh mềm” của Việt Nam là giá trị địa - chiến lược của Việt Nam đã tăng lên đáng kể so với trước đây, trở thành khu vực chiến lược “trọng tâm” trong chiến lược đối ngoại của nhiều nước.
Ngoài ra, không thể không bàn đến yếu tố con người - động lực quan trọng nhất trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Con người Việt Nam với tinh thần yêu nước, đoàn kết, có bản lĩnh, sáng tạo, không ngừng nỗ lực phấn đấu, với ý chí quyết tâm phát triển dân tộc, phát triển đất nước, xây dựng đất nước phồn vinh và hạnh phúc. Sức mạnh dân tộc không chỉ được xây dựng bởi người dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc trong nước, mà còn từ nguồn lực to lớn về vật chất và tinh thần, cùng nguồn lực tài chính và tấm lòng hướng về cội nguồn của hàng triệu người dân Việt Nam định cư nước ngoài, vốn được coi là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam(14). Sức mạnh dân tộc không chỉ là sức mạnh nội lực bên trong quốc gia, mà còn bao hàm cả một phần ngoại lực được huy động nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, sức mạnh dân tộc của đất nước không chỉ được phát huy nhờ sức mạnh mềm, nền tảng kinh tế - xã hội và con người, mà còn nhờ vào hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, luôn được chú trọng, xây dựng và chỉnh đốn. Với sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nỗ lực “định vị” Việt Nam vào dòng chảy của thời đại; luôn có những đường lối, chỉ đạo đúng đắn; luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn nhằm đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới trong bối cảnh mới.
Có thể thấy, trải qua hơn 35 năm đổi mới và phát triển, Đảng, Nhà nước ta ngày càng khẳng định tầm quan trọng của sức mạnh dân tộc trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa và phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc và luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết.
Về sức mạnh thời đại, không thể phủ nhận vai trò hết sức quan trọng của sức mạnh dân tộc đối với sự tồn vong và phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, không một quốc gia nào có thể tồn tại một cách độc lập, tách biệt với những xu thế chung của thế giới. Những biến chuyển sâu sắc trong cục diện quốc tế đang tác động trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển đất nước, đem lại thời cơ và thách thức mới đan xen. Chính vì thế, bên cạnh việc phát huy nội lực, việc kết hợp sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển đất nước là vô cùng cần thiết.
Sức mạnh thời đại là khái niệm mang tính đặc thù Việt Nam, nhưng cũng có nhiều điểm chung với quan niệm phổ biến ở các quốc gia khác. Trước đây, sức mạnh thời đại được coi là đồng nhất với các nguồn ngoại lực - những thuận lợi hay các yếu tố bên ngoài. Quan điểm về sức mạnh thời đại xuất phát từ giai đoạn kháng chiến, chủ yếu là các xu thế, như công nhận quyền tự quyết, quyền độc lập, quyền bình đẳng của các quốc gia và xu thế cách mạng toàn cầu, đấu tranh cho những mục tiêu cao của thời đại: với hòa bình, hợp tác và phát triển là cơ sở để các quốc gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh hiện nay, nguồn lực của sức mạnh thời đại hết sức đa dạng. Sức mạnh thời đại được cấu thành bởi các xu thế lớn, đặc biệt là hòa bình, hợp tác và phát triển; trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm, dân chủ, bình đẳng; sức mạnh của các lực lượng tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu hòa bình, sức mạnh của các quốc gia trong thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, các tổ chức quốc tế và khu vực, các hiệp định thương mại tự do, luật pháp quốc tế, chủ nghĩa đa phương... Bên cạnh đó, sức mạnh thời đại ngày nay còn là tổng hợp giữa các nguồn lực vật chất (vốn, máy móc, thiết bị, vật tư công nghệ...) và các nguồn lực tinh thần (giá trị văn hóa của các dân tộc, thời đại). Thông qua quá trình vận dụng sức mạnh thời đại, Đảng ta đã khắc phục được hạn chế, yếu kém, đồng thời hoàn thiện đường lối, chiến lược phát triển của dân tộc.
Nhìn chung, để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, Đảng ta đã vận dụng khéo léo, linh hoạt phương thức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên, cùng với quá trình đổi mới, các vấn đề về lợi ích, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục cũng như một số mặt trái cần được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình kết hợp.
Xét về sức mạnh dân tộc, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng và thực tế nguồn lực được huy động. Một số nguy cơ vẫn còn tồn tại, thậm chí có mặt còn diễn biến phức tạp hơn, như tham nhũng, lãng phí, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ,... Chính vì vậy, có thể khẳng định, sức mạnh dân tộc cũng là sự tự sửa mình, tiêu biểu như việc sửa những mặt trái của nền kinh tế thị trường, chống tham nhũng, chống các nguy cơ mà Đảng và Nhà nước đã chỉ ra. Ngoài ra, Việt Nam cũng phải đối mặt với những khó khăn trong việc khai thác, sử dụng hiệu quả bền vững các nguồn tài nguyên và nguồn nhân lực. Đặc biệt, nguồn lực con người ở Việt Nam - nguồn lực nội sinh có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đất nước - hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế về năng lực chuyên môn, khả năng thích ứng...
Xét về sức mạnh thời đại, các xu thế không thuận, như chủ nghĩa dân túy, cường quyền nước lớn, bảo hộ mậu dịch,... đang nổi lên mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế. Luật pháp quốc tế và chủ nghĩa đa phương cũng đang gặp phải những thách thức không nhỏ, thậm chí có thể lâm vào tình trạng “thoái trào”. Các xu thế, dòng chảy chính của thời đại hiện nay cũng biến chuyển và thay đổi phức tạp, khó lường, gây khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách trong việc nắm bắt và nhận thức một cách đúng đắn, kịp thời. Do đó, trong quá trình kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, cần xem xét kỹ lưỡng, bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế, những giá trị chung của nhân loại và lợi ích chính đáng của các quốc gia khác.
Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh mới cũng gặp phải không ít khó khăn và thách thức. Trước hết, quá trình kết hợp nếu không được thực hiện cẩn trọng thì dễ dẫn tới tình trạng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, thậm chí gây đe dọa đến chủ quyền, lãnh thổ và an ninh phát triển của đất nước. Thêm vào đó, trình độ và mức độ thích ứng của nền kinh tế Việt Nam còn chưa cao, khiến việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dù đã được triển khai, nhưng chưa thực sự hiệu quả, đi vào chiều sâu.
Tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và mục tiêu phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI
Tại Đại hội XIII của Đảng, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(15). Đó là sự nhất quán và phát triển tư duy nhận thức của Đảng trước những biến đổi của tình hình thực tiễn đang tác động, ảnh hưởng, chi phối trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đại hội chủ trương: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(16). Đây là quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta hướng tới thực hiện các mục tiêu phát triển năm 2025, năm 2030 và năm 2045.
Để phát huy tốt quan điểm chỉ đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cho mục tiêu phát triển đất nước của Việt Nam đến năm 2030, năm 2045, năm 2050, cần thống nhất một số định hướng sau:
Thứ nhất, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chính là gắn độc lập, tự chủ của đất nước với việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Chính vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục giữ vững nguyên tắc hàng đầu về bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Đồng thời, Việt Nam cũng cần nâng cao nhận thức về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại cho đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách, triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động nắm bắt thời cơ, tiến hành hội nhập quốc tế trên tất cả phương diện từ kinh tế, văn hóa - xã hội đến quốc phòng - an ninh...
Thứ hai, sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội sinh là yếu tố quyết định; sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế, sức mạnh bên ngoài là yếu tố quan trọng, nhưng chỉ có tác dụng và hiệu quả khi sức mạnh bên trong được chuẩn bị kịp thời, đầy đủ. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục kế thừa truyền thống “độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường”, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc - căn cốt của sức mạnh dân tộc và nhanh chóng nắm bắt, tận dụng thời cơ để vượt qua thách thức, tạo thế ổn định, phát triển đất nước, phát huy. Những nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân sẽ tạo cho đất nước khả năng tận dụng tối ưu những yếu tố có lợi, loại trừ những yếu tố bất lợi, vô hiệu hóa những mưu đồ thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, tranh thủ ngoại lực đẩy mạnh công cuộc đổi mới, bảo đảm cho đất nước luôn ổn định và phát triển.
Thứ ba, Việt Nam đã và đang tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu; hiện nay có 17 đối tác chiến lược và 13 đối tác toàn diện. Ngoài ra, Việt Nam cũng là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng trên thế giới. Trong bối cảnh chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông; cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn dẫn tới sự cọ xát, cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng khốc liệt, gay gắt, Việt Nam chủ trương tôn trọng và xử lý khéo léo quan hệ với các nước. Đặc biệt, đối với các nước lớn, Việt Nam cần đánh giá kỹ sự điều chỉnh chính sách của những nước này, hiểu rõ vị trí chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ với từng nước, từ đó tạo thuận lợi cho quá trình hoạch định chính sách.
Thứ tư, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, nhất là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, Hợp tác tiểu vùng sông Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể. Đây là cách thức để Việt Nam xây dựng lòng tin và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cũng như hiện thực hóa vai trò dẫn dắt, trung gian, hòa giải của Việt Nam tại các cơ chế này gắn kết sâu sắc hơn nữa Việt Nam với thế giới.
Thứ năm, cân bằng giữa việc phát triển nội lực đất nước và tận dụng nguồn lực bên ngoài trên cơ sở xem trọng và đẩy mạnh các hoạt động nâng tầm sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời, không được xem nhẹ dòng chảy và sức mạnh của thời đại. Bên cạnh đó, không nên quá phụ thuộc vào bên ngoài dẫn đến tình trạng thiếu tính độc lập, tự chủ, dễ bị “hòa tan” cũng như dễ rơi vào tình trạng thụ động, bảo thủ hay biệt lập trong bối cảnh đất nước đang tăng cường quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện.
Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được Đảng ta vận dụng sáng tạo qua từng giai đoạn lịch sử đã phản ánh sự nhất quán về lập trường tư tưởng chính trị và sự khéo léo, linh hoạt của Đảng trong phát triển nhận thức phù hợp với tình hình thực tiễn và các xu thế toàn cầu. Trên tinh thần phát huy ý chí “độc lập, tự lực, tự cường”, Đảng ta cần thống nhất các định hướng để đạt được các mục tiêu về bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của đất nước đến giữa thế kỷ XXI./.
------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 17 (XVII)
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 10 (X)
(3) Nguyễn Viết Thảo: “Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong tình hình mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, 2016, tr. 9
(4) Nguyễn Vinh Quang: “Bác Hồ tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam”, Báo Quân đội Nhân dân điện tử, ngày 1-6-2021, https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc/hanh-trinh-lich-su/bac-ho-tranh-thu-su-ung-ho-cua-quoc-te-doi-voi-cach-mang-viet-nam-661321
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2000, t. 8, tr. 434
(6) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 437
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. IX
(8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XIX, XVII
(10) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991); Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, ngày 12-7-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25-10-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”... nhấn mạnh tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là bài học quan trọng và xuyên suốt, đồng thời cũng là nhiệm vụ của Đảng và nhân dân Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
(11) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 47
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 155
(13) Xem: Nguyễn Thị Nga - Hoàng Thị Kim Oanh: “Phát huy “sức mạnh mềm” trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 25-6-2018, http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/phat-huy-suc-manh-mem-trong-boi-canh-toan-cau-hoa-113001
(14) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 245
(15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 155 - 156, 110 - 111
Cục diện thế giới nhìn từ cuộc xung đột Nga - Ukraine  (12/08/2023)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển