Hành lang Kinh tế Đông - Tây: Thành tố quan trọng thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế ở Tiểu vùng sông Mê Công
TCCS - Với giá trị địa chiến lược đặc biệt quan trọng, Tiểu vùng sông Mê Công ngày càng thu hút sự quan tâm của các nước lớn. Cùng với tiềm năng, lợi thế sẵn có, sự hiện diện của các nước lớn ở Tiểu vùng chính là cơ hội để thúc đẩy các hợp tác song phương và đa phương thông qua các cơ chế, sáng kiến, mà nổi bật là sáng kiến Hành lang Kinh tế Đông - Tây (EWEC). Với quá trình hình thành, phát triển và triển khai trên thực địa, EWEC góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân khu vực hạ lưu sông Mê Công.
Tiểu vùng sông Mê Công - tiềm năng và cơ hội hợp tác phát triển
Tiểu vùng sông Mê Công (còn được gọi là Đông Nam Á “lục địa”) với tổng diện tích khoảng gần hai triệu ki-lô-mét vuông, bao gồm năm nước là Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Thái Lan và Việt Nam. Tiểu vùng sông Mê Công tiếp giáp với Trung Quốc và Ấn Độ; là điểm kết nối lục địa châu Á với biển (phía Đông kết nối với Thái Bình Dương, phía Tây kết nối với Ấn Độ Dương); là giao điểm của vùng Đông Bắc Á, Nam Á và Đông Nam Á; có giá trị địa chiến lược nối liền Đông và Tây, chi phối cục diện chung toàn khu vực Đông Nam Á, rộng hơn là vành đai Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Tiểu vùng sông Mê Công nằm giữa những vùng kinh tế năng động và phát triển nhất của châu Á hiện nay trong phát triển thương mại, đầu tư, kết cấu hạ tầng. Tiểu vùng ngày càng đóng vai trò quan trọng, là “cầu nối” giữa hai nền kinh tế đang nổi lên ở châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ và các nước thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); đồng thời, còn là hành lang giao thương từ Nhật Bản, Trung Quốc đến Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Vì vậy, Tiểu vùng mang giá trị chiến lược và lợi ích đặc biệt quan trọng không chỉ đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á mà còn cả với các nước ngoài khu vực. Với những giá trị về địa - chính trị, kinh tế, an ninh như vậy, Tiểu vùng sông Mê Công chiếm một vị trí quan trọng trong tương quan giữa các khu vực trên thế giới; đồng thời, là cơ sở cho mục tiêu quan tâm, can dự và gây ảnh hưởng của các nước lớn đối với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ - hai quốc gia đều muốn gia tăng, mở rộng thương mại và đầu tư trực tiếp tại khu vực này.
Các nước trong Tiểu vùng không chỉ chia sẻ chung dòng sông Mê Công mà còn có nhiều nét văn hóa, xã hội và lịch sử tương đồng. Đây là nền tảng, cơ sở hình thành nên một cách tự nhiên những mối quan hệ đa dạng, đa chiều trong lịch sử quan hệ giữa các nước thuộc Tiểu vùng; là cơ sở vững chắc và lâu dài trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Bước sang thế kỷ XXI, cùng với tiến trình toàn cầu hóa, liên kết hóa và đổi mới kinh tế, các nước Tiểu vùng sông Mê Công đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển, trở thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài, không chỉ bởi lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú, mà còn bởi đây là khu vực năng động, có nền kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định.
Một trong những động lực để các nước trong Tiểu vùng tăng cường liên kết, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường, nguồn nước là xây dựng các cơ chế hợp tác đa phương, như: Ủy hội sông Mê Công quốc tế (MRC), Hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS)... Trong các cơ chế hợp tác này, GMS được đánh giá là chương trình hợp tác hoàn chỉnh nhất về thành viên trong Tiểu vùng mở rộng. Được thành lập từ năm 1992, với sự trợ giúp của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), GMS có sự tham gia của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan, Mi-an-ma và tỉnh Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc). Sự hợp tác này được triển khai trên các lĩnh vực trọng tâm là: 1- Giao thông tận tải; 2- Năng lượng; 3- Môi trường; 4- Du lịch; 5- Bưu chính, viễn thông; 6- Thương mại; 7- Đầu tư; 8- Phát triển nguồn nhân lực; 9- Nông nghiệp và phát triển nông thôn; 10- Quản lý nguồn nước.
Với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân lưu vực sông Mê Công, các nước tham gia GMS đã thỏa thuận hợp tác phát triển hạ tầng giao thông, năng lượng, thương mại, du lịch, đào tạo nguồn nhân lực... Hợp tác phát triển hạ tầng giao thông được ưu tiên hàng đầu và đạt nhiều kết quả nổi bật nhất, hướng tới hình thành, xây dựng ba hành lang kinh tế chính, gồm: Hành lang Kinh tế Đông - Tây (EWEC), Hành lang Kinh tế Bắc - Nam (NSEC) và Hành lang Kinh tế phía Nam (SEC). Trong đó, EWEC tạo tác động lan tỏa, lôi cuốn các vùng xung quanh vào luồng phát triển chung và là “chìa khóa” để phát triển khu vực hạ lưu sông Mê Công. EWEC gắn hội nhập kinh tế khu vực với công nghiệp hóa và tạo không gian mới để các nước Tiểu vùng sông Mê Công hợp tác phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, EWEC góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường liên kết trong Tiểu vùng với các nước ASEAN cũng như với các nước khác trên thế giới. Với tầm quan trọng về địa chiến lược của Tiểu vùng sông Mê Công, EWEC đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nước lớn, thông qua viện trợ, gia tăng đầu tư cùng với sự hiện diện các định chế tài chính quốc tế như: ADB, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Đầu tư kết cấu hạ tầng châu Á (AIIB)... để mở rộng tầm ảnh hưởng của mình. Đây chính là cơ hội rất lớn cho các quốc gia trên tuyến EWEC có thể tăng cường hợp tác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cũng như tạo ra một không gian bảo đảm an ninh và lợi ích quốc gia.
Hành lang Kinh tế Đông - Tây trong thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế Tiểu vùng sông Mê Công
Tháng 10-1998, Hội nghị lần thứ 8 các Bộ trưởng Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng được tổ chức tại trụ sở của ADB ở Ma-ni-la (Phi-líp-pin) đã đưa ra thảo luận năm dự án hành lang; trong đó Hội nghị đã thống nhất ưu tiên thực hiện dự án EWEC nhằm thúc đẩy phát triển và hội nhập kinh tế giữa bốn nước thành viên ASEAN là: Mi-an-ma, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Dự án này được Hội nghị cấp cao ASEAN 6 (tháng 12-1998) chính thức đưa vào Chương trình Hành động Hà Nội, thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020. EWEC đã chính thức đi vào hoạt động và thông tuyến vào ngày 20-12-2006 với sự kiện khánh thành cầu Hữu nghị 2 bắc qua sông Mê Công, nối Xa văn Na khẹt (Lào) với Mục-đa-hản (Thái Lan).
EWEC là tuyến hành lang dài 1.450km, đi qua 13 tỉnh của 4 nước Mi-an-ma, Thái Lan, Lào và Việt Nam; bắt đầu từ thành phố cảng Mawlamyine (bang Mon) đến cửa khẩu Myawaddy (bang Kayin) ở biên giới Mi-an-ma - Thái Lan. Ở Thái Lan, EWEC được bắt đầu từ Mae Sot, chạy qua 7 tỉnh của nước này. Ở Lào, tuyến hành lang này chạy từ tỉnh Xa văn Na khẹt đến cửa khẩu Dansavanh và ở Việt Nam, chạy từ cửa khẩu Lao Bảo qua các tỉnh Quảng Trị, Huế và thành phố Đà Nẵng. EWEC còn là con đường huyết mạch nối liền GMS với không gian kinh tế sông Hằng (Ấn Độ), góp phần rút ngắn khoảng cách và phí tổn cho việc mở rộng giao lưu kinh tế giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương; đồng thời, nằm trên tuyến đường xuyên Á, cầu nối giữa thị trường Trung Quốc rộng lớn với khu vực ASEAN.
Về mục tiêu, EWEC hướng tới lợi ích thiết thực và lâu dài cho các quốc gia thành viên nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, thúc đẩy phát triển giao lưu thương mại, đầu tư giữa các nước; góp phần xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ phát triển các khu vực dọc biên giới, các vùng nông thôn và gia tăng thu nhập cho người dân. Đây là cơ hội để các quốc gia tiếp cận gần hơn nữa với các nguồn tài nguyên khoáng sản, hải sản và năng lượng, phục vụ cho các ngành sản xuất và chế biến; tạo điều kiện phát triển cho các thành phố, thị trấn, thị xã dọc hành lang EWEC, đồng thời thúc đẩy thương mại xuyên biên giới; thu hút đầu tư từ các quốc gia, khu vực và thế giới. Hơn nữa, EWEC tạo môi trường phát triển cho các hoạt động kinh tế thông qua việc sử dụng hiệu quả không gian, địa lý, góp phần hình thành khu vực kinh tế xuyên quốc gia; tạo điều kiện mở cửa cho hàng hóa của các địa phương và các nước nằm dọc hành lang này thâm nhập các thị trường đầy tiềm năng của Nam Á, Đông Á và châu Âu. EWEC còn tạo ra cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ ngoài khu vực thông qua việc kết nối với các thị trường quốc tế và với khu vực Đông Á, vì vậy, EWEC được kỳ vọng trở thành hành lang hợp tác hữu nghị, cùng phát triển của các nước trong và ngoài khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau, đan xen lợi ích kinh tế và an ninh giữa các nước trong khu vực với các đối tác phát triển khác, góp phần cải thiện môi trường an ninh biên giới dọc tuyến hành lang EWEC, củng cố sự ổn định, phát triển ở khu vực.
Về nguyên tắc, EWEC được ưu tiên triển khai bởi GMS. Vì vậy, EWEC cũng phải tuân thủ theo các nguyên tắc hợp tác và cơ chế hoạt động của GMS. Hợp tác EWEC phải dựa trên nguyên tắc chung (tự nguyện, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền quốc gia) và sáu nguyên tắc hợp tác cụ thể đã được các Bộ trưởng GMS thông qua, bao gồm: Thứ nhất, hợp tác GMS phải tạo điều kiện duy trì tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân trong Tiểu vùng. Các chương trình và dự án GMS cần phản ánh sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường; thứ hai, các dự án có thể thu hút một số quốc gia trong Tiểu vùng và không nhất thiết phải bao gồm cả sáu nước. Các thỏa thuận song phương trong Tiểu vùng là bộ phận cấu thành của hợp tác Tiểu vùng; thứ ba, việc cải tạo hoặc khôi phục những cơ sở hiện có được ưu tiên cao hơn việc xây dựng những cơ sở mới; thứ tư, khuyến khích tài trợ cho các dự án Tiểu vùng từ nguồn vốn chính phủ và tư nhân; thứ năm, các nước thành viên Tiểu vùng cần thường xuyên gặp gỡ, trao đổi để duy trì động lực thúc đẩy tiến trình hợp tác phát triển; thứ sáu, các dự án hợp tác sẽ không làm tổn hại lợi ích của bất kỳ quốc gia nào, bất kể lợi ích hiện có hoặc sẽ có trong tương lai.
Từ khi thành lập đến nay, tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc EWEC đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận thông qua các dự án hợp tác đầu tư, thương mại, công nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng; chuyển giao công nghệ; giao lưu văn hóa nhằm xóa đói, giảm nghèo, phát triển nông thôn, nâng cao đời sống của người dân. Trong đó, lĩnh vực phát triển mạnh nhất, nổi bật nhất là hợp tác trong lĩnh vực giao thông, vận tải, với tuyến đường Đông - Tây đầu tiên xuyên suốt từ Biển Đông đến các cảng biển của Mi-an-ma, ven Vịnh Ben-gan trên Ấn Độ Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác kinh tế EWEC và GMS. EWEC tạo điều kiện phát triển một hệ thống giao thông đạt hiệu quả cao, cho phép hàng hóa và hành khách lưu thông trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng mà không gặp trở ngại hay chi phí cao, đưa sự liên kết vùng trở thành một cửa ngõ phát triển của Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, thâm nhập các thị trường đầy tiềm năng của các nước khu vực Nam Á và Tây Á. Với cực Đông là thành phố Đà Nẵng, EWEC kết nối trực tiếp Tiểu vùng ra Thái Bình Dương, mở ra cơ hội rất lớn cho các quốc gia trong việc rút ngắn quãng đường trung chuyển hàng hóa xuất khẩu đi các nước Đông Bắc Á và châu Mỹ(1). Việc khai thác tiềm năng, lợi thế của mỗi nước từng bước được cải thiện, tạo điều kiện cho các vùng và địa phương thuộc EWEC phát triển mạnh hơn về kinh tế, văn hóa, phát triển nguồn nhân lực và giáo dục - đào tạo... Đồng thời, EWEC góp phần kết nối các di sản văn hóa thế giới của các nước trong khu vực cũng như tạo ra những điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư, thương mại và du lịch của thế giới vào EWEC nói riêng và ASEAN nói chung. Vì vậy, EWEC không chỉ gắn kết các nền kinh tế các quốc gia Tiểu vùng Mê Công mà còn là cầu nối hợp tác, liên kết kinh tế và phát triển giữa các nước bên bờ Thái Bình Dương với các nước bên bờ Ấn Ðộ Dương và vươn xa tới Tây bán cầu. Điều này còn góp phần tăng cường an ninh mỗi nước và khu vực, tăng cường hợp tác hữu nghị giữa các nước, hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng Kinh tế (AEC) vào năm 2025.
Tuy nhiên, các địa phương dọc hành lang EWEC hầu hết còn nghèo, trình độ phát triển thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ; xa cách về mặt địa lý và xa các trung tâm, đô thị phát triển. Kết cấu hạ tầng giao thông còn kém phát triển, thiếu đồng bộ, cơ chế phối hợp giữa các địa phương trên toàn tuyến EWEC vẫn còn yếu. Hơn nữa, theo cùng các xu thế lớn như tự do hóa, toàn cầu hóa và liên kết..., nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực an ninh hoặc các vấn đề liên quan khác ở Tiểu vùng Mê Công đòi hỏi cần có sự hợp tác song phương hay đa phương trên các cấp độ quốc gia, khu vực, toàn cầu mới có thể giải quyết được. EWEC ra đời và chính thức đi vào hoạt động cũng tạo ra không gian mới và làm nảy sinh những vấn đề mới liên quan đến an ninh quốc gia ở mỗi nước Tiểu vùng Mê Công và ở cấp độ khu vực.
Bên cạnh đó, quá trình thực hiện mục tiêu chung của EWEC còn đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Một là, cạnh tranh giữa nước lớn, nhất là cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực này diễn ra ngày càng gay gắt, khiến các nước Tiểu vùng ở vào thế khó xử trong việc lựa chọn và ưu tiên đối tác hợp tác, điều này đã làm phân tán nguồn lực trong thúc đẩy hợp tác phát triển ở Tiểu vùng; hai là, với những động thái nhằm gia tăng tầm ảnh hưởng của các nước lớn tại khu vực, các nước Tiểu vùng sẽ đứng trước thách thức bị lôi kéo, chi phối và phụ thuộc vào các nước lớn/các đối tác phát triển; sự đoàn kết, thống nhất gắn kết nội khối giữa các nước Tiểu vùng, đối diện với nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò trung tâm của Cộng đồng ASEAN; ba là, các nước Tiểu vùng sẽ phải đối mặt với nguy cơ rơi vào “bẫy” của các nền kinh tế tăng trưởng dựa vào nguyên liệu; trở thành thị trường cho hàng hóa và công nghệ lạc hậu, chịu các hệ lụy đến từ môi trường, cạn kiệt tài nguyên... do thiếu quy hoạch phát triển bền vững, đe dọa trực tiếp đời sống, sản xuất của người dân ở lưu vực sông Mê Công; bốn là, vấn đề giao thông đi lại thuận tiện qua khu vực biên giới cũng đặt ra thách thức đối với các nước Tiểu vùng trong việc ngăn ngừa các hoạt động thâm nhập nội địa của các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia; mua bán trái phép chất ma túy, mua bán phụ nữ, trẻ em; vấn đề di dân, xây dựng các khu định cư lâu dài theo các dự án kinh tế, nhất là tại các vùng biên, các vùng có vị trí chiến lược quan trọng, có thể làm xáo trộn đời sống sinh hoạt của người dân địa phương, làm nảy sinh xung đột, gây bất ổn về an ninh, trật tự và là mối đe dọa tiềm tàng đối với vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia thuộc Tiểu vùng.
Với những khó khăn và thách thức như vậy, việc thúc đẩy EWEC đạt hiệu quả hơn trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội chính là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Một EWEC hiệu quả sẽ góp phần quan trọng vào lộ trình xây dựng AEC 2025; hiện thực hóa mục tiêu mở rộng khu vực mậu dịch tự do về phạm vi và nâng cao về mức độ tự do hóa; về cơ bản không còn thuế quan đối với hàng hóa và có sự lưu chuyển thông thoáng hơn về dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề, thúc đẩy kết nối với các nền kinh tế lớn trên thế giới, tăng cường hơn nữa xu thế hòa bình, hợp tác phát triển ở Tiểu vùng sông Mê Công. Hơn nữa, khi EWEC vươn xa tới khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sẽ tạo ra nguồn lực kinh tế mạnh mẽ, góp phần giúp ASEAN đẩy mạnh hơn nữa hợp tác với các nước trên thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn, nâng cao sức cạnh tranh; đồng thời, làm cho môi trường đầu tư tại khu vực ASEAN ngày càng trở nên hấp dẫn hơn, thúc đẩy các doanh nghiệp ở những nước kém phát triển hơn, như Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma... tham gia sâu vào các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu.
Đối với Việt Nam, lưu vực sông Mê Công có ý nghĩa chiến lược về kinh tế - xã hội, môi trường, sinh thái và an ninh, quốc phòng. Về cơ bản, mục đích của những chương trình hợp tác tại Tiểu vùng Mê Công đều phù hợp với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Bởi vậy, Việt Nam luôn ủng hộ và tham gia tích cực, là thành viên của hầu hết các chương trình hợp tác tại Tiểu vùng Mê Công, trong đó có hợp tác trên tuyến EWEC. Việt Nam nằm ở vị trí “đắc địa” của hành lang EWEC, kết nối các nền kinh tế Ấn Độ và Nam Á tới Tiểu vùng Mê Công, kết nối qua Biển Đông tới các nền kinh tế ASEAN “biển đảo” và các nước khác; góp phần tạo ra những “đại lộ” kinh tế, thương mại nằm ngoài các hành lang, tuyến đường được tạo nên bởi các sáng kiến, hợp tác như Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI), Hợp tác Mê Công - Lan Thương (MLC)... Điều này đã được thể hiện qua việc Việt Nam thu hút được các dự án đầu tư nước ngoài vào các tuyến đường bộ thuộc hành lang Đông - Tây và các cảng biển. Trong khoảng hai thập niên gần đây, nhiều nguồn vốn được huy động ngoài ngân sách để đầu tư phát triển các hệ thống cảng biển tại Việt Nam với sự tham gia của các doanh nghiệp vận tải biển lớn trên thế giới. Nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực vận tải và điều hành khai thác cảng biển trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam để hình thành các mô hình liên doanh đầu tư xây dựng và khai thác cảng biển. Hệ thống kho vận, cảng cụm công nghiệp hiện đại, có quy mô lớn, như Khu kinh tế Nghi Sơn, Vũng Áng - Sơn Dương, Dung Quất... trên trục kết nối Đông - Tây giúp tạo ra một không gian phát triển mới, bền vững. Đây là nền tảng thuận lợi để cảng biển Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong EWEC và chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn hàng hải, khai thác cảng biển hàng đầu thế giới.
Có thể nói, EWEC đã mang lại những hiệu quả rất thiết thực đối với các nước dọc tuyến Hành lang Kinh tế Đông - Tây. Sự phát triển về giao thông vận tải thông qua việc kết nối với nhiều tuyến đường huyết mạch đã tạo điều kiện giúp các địa phương có EWEC chạy qua tiếp cận dễ dàng hơn với các trung tâm kinh tế. Nhưng để khai thác tối đa những lợi ích do EWEC mang lại thì các nước cũng cần phải mở rộng thị trường nội địa của mình để các nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia cạnh tranh bình đẳng dựa trên nền tảng những nguyên tắc của GMS và các hiệp định đã ký kết giữa ASEAN với các nước khác./.
------------
(1) Giới thiệu về Hành lang kinh tế Đông - Tây, http://www.moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/gioi-thieu-ve-hanh-lang-kinh-te-%C4%91ong-tay-11104-22.html
Chiến lược của Trung Quốc và Nhật Bản trong khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam  (29/11/2021)
Bế mạc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 38 và 39  (28/10/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển