Chiến lược của Trung Quốc và Nhật Bản trong khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
TCCS - Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) là khu vực địa - kinh tế, địa - chính trị quan trọng ở Đông Nam Á, là điểm giao thoa lợi ích của nhiều cường quốc trên thế giới. Vì vậy, với sự biến đổi không ngừng của tình hình khu vực và thế giới, các nước lớn, trong đó có Trung Quốc và Nhật Bản, ngày càng mong muốn mở rộng tầm ảnh hưởng của mình tại khu vực, trong đó có khu vực GMS.
Cùng với sự phát triển năng động của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), GMS được chú ý đến là khu vực địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng ở Đông Nam Á. Trải qua gần ba thập niên phát triển, hợp tác GMS được đánh giá là khá thành công, tạo nên những thay đổi lớn tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các nước trong Tiểu vùng. Vì vậy, GMS đã trở thành mục tiêu hợp tác lý tưởng đối với các nước lớn.
Bước sang thế kỷ XXI, các nước lớn đã gia tăng về cả số lượng và quy mô của các dự án hợp tác tại khu vực GMS. Sự can dự của các nước lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ vào GMS ngày càng mang tính cạnh tranh chiến lược. Một loạt cơ chế hợp tác giữa các nước GMS với các nước đối tác đã được hình thành, như Hợp tác Mekong - sông Hằng (năm 2000), Hợp tác Mekong - Nhật Bản (năm 2008), Hợp tác các nước hạ nguồn sông Mekong - Mỹ (năm 2009) và gần đây nhất là Hợp tác Mekong - Lan Thương (năm 2016).
Trong gần ba thập niên phát triển (1992 - 2020), tỷ trọng tăng trưởng kinh tế trung bình của Tiểu vùng đạt mức 6,3% và mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người là 5%. Cuộc sống của người dân trong khu vực có chất lượng ngày càng cao. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước GMS đã tăng gấp 10 lần(1). Cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, GMS đang trở thành khu vực hấp dẫn và cạnh tranh của nhiều nước lớn. Có thể nói, trong tương lai, các nước lớn sẽ tiếp tục điều chỉnh chính sách để gia tăng ảnh hưởng và bảo vệ lợi ích của mình ở GMS, trong đó có Trung Quốc và Nhật Bản.
Chiến lược của Nhật Bản đối với GMS
Với tầm quan trọng của khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản luôn tích cực và chủ động tham gia các cơ chế hợp tác do ASEAN khởi xướng. Vì vậy, từ khi GMS được thành lập (năm 1992), Nhật Bản đã chú trọng vào khu vực Mekong, điều này thể hiện ở hai điểm: Một là, Nhật Bản mong muốn thúc đẩy hợp tác kinh tế với các nước đang phát triển. Khi sự thịnh vượng và ổn định ở châu Á phù hợp với lợi ích quốc gia của Nhật Bản, nước này đã chủ động gắn kết nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho khu vực Mekong với các hoạt động thương mại và đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân Nhật Bản. Hai là, sự thay đổi trong chiến lược ngoại giao của Nhật Bản. Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản trợ giúp ASEAN để gia tăng ảnh hưởng chính trị trong khu vực. Bước sang những thập niên đầu thế kỷ XXI, Nhật Bản và Trung Quốc có sự cạnh tranh quyết liệt nhằm thiết lập ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Á. Với mục tiêu thiết lập một “vòng cung tự do và thịnh vượng”, khu vực Mekong trở thành một phần chính bên trong vòng cung tự do và thịnh vượng đó của Nhật Bản. Chính vì vậy, trong Tuyên bố Tokyo 2003 tại Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN, Nhật Bản đưa ra khái niệm mới về phát triển khu vực Mekong (gọi là “Khái niệm 2003”). Theo đó, Nhật Bản bày tỏ thái độ tích cực đối với việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Bên cạnh đó, để nâng cao tầm ảnh hưởng tại ASEAN, Nhật Bản cũng nhận thấy khu vực Mekong là mắt xích quan trọng. Kể từ khi GMS thành lập, Nhật Bản và các nước GMS đã có nhiều cuộc gặp giữa các bộ trưởng và các quan chức cấp cao để thảo luận những lĩnh vực phát triển và coi đó là một phần của chương trình Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN. Nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 (ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) tổ chức ở Viêng Chăn (Lào, năm 2004), Nhật Bản đã tiến hành Hội nghị Ngoại trưởng Nhật Bản - CLV và Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - CLV (Campuchia, Lào, Việt Nam) đầu tiên, tập trung thúc đẩy “tam giác phát triển”, bao gồm Đông Bắc Campuchia, Nam Lào và miền Trung Việt Nam.
Trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh kết hợp với xu thế liên kết khu vực, đặc biệt với sự trỗi dậy của Trung Quốc như “một công xưởng thế giới”, sự bổ sung giữa nền kinh tế Nhật Bản với các nền kinh tế Đông Nam Á có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với Nhật Bản. Hơn nữa, sự khan hiếm về mặt tài nguyên, năng lượng cũng là một bài toán khó buộc Nhật Bản phải tăng cường hợp tác năng lượng với các quốc gia có tiềm năng về nguồn dự trữ tài nguyên trong khu vực. Do vậy, GMS là khu vực Nhật Bản hướng tới. Chính sách “ngoại giao kinh tế”, trong đó có “ngoại giao ODA” kết hợp với “ngoại giao văn hóa” là hướng đi được Nhật Bản chú trọng nhằm duy trì và gia tăng lợi ích chiến lược kinh tế, chính trị của Nhật Bản trên trường quốc tế.
Năm 2006, hợp tác giữa Nhật Bản và khu vực Mekong bước vào giai đoạn mới, được thể hiện trong Chương trình đối tác khu vực Nhật Bản - Mekong. Trong đó, Nhật Bản tuyên bố chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Mekong - Nhật Bản trong nỗ lực nhằm tăng cường đối thoại chính sách của Nhật Bản với các quốc gia GMS. Chương trình nhấn mạnh ba trụ cột của mối quan hệ đối tác giữa Nhật Bản - Mekong, bao gồm: 1- Hội nhập các nền kinh tế của khu vực và xa hơn nữa; 2- Mở rộng thương mại, đầu tư giữa Nhật Bản và khu vực Mekong; 3- Chia sẻ các giá trị và mục tiêu chung, trong đó có dân chủ và việc thực thi pháp luật.
Nhật Bản tiến hành viện trợ cho các nước GMS thông qua khuôn khổ đa phương. Tuy nhiên, từ sau khi công bố “Định hướng mới trong phát triển khu vực Mekong” (năm 2003), Nhật Bản triển khai hợp tác song phương với từng bên. Thời gian đầu chủ yếu là với các nước Campuchia, Lào và Việt Nam. Năm 2007, hoạt động hợp tác và viện trợ mở rộng thêm với Myanmar và Thái Lan. Khuôn khổ hợp tác nhấn mạnh vào các trụ cột, như viện trợ đa phương và song phương, phát triển kết cấu hạ tầng vận tải, năng lượng; thúc đẩy liên kết khu vực; đẩy mạnh công nghiệp và phát triển nguồn nhân lực, đưa khu vực Mekong vào mạng lưới sản xuất của Đông Á. Có thể nói, mô hình hợp tác Mekong - Nhật Bản xuất phát từ nhu cầu cạnh tranh ảnh hưởng của Nhật Bản tại khu vực.
Năm 2009, Hội nghị thượng đỉnh Mekong - Nhật Bản lần đầu tiên được tổ chức, thông qua Tuyên bố Tokyo 2009 và Kế hoạch hành động Mekong - Nhật Bản. Hợp tác Mekong - Nhật Bản được thể chế hóa thông qua sự nhất trí tổ chức Hội nghị thượng đỉnh hằng năm. Tuyên bố Tokyo 2009 khẳng định, mục tiêu của hợp tác Mekong - Nhật Bản là xây dựng một cộng đồng Đông Á dựa trên các nguyên tắc cởi mở, công khai, minh bạch, góp phần cải thiện môi trường an ninh ở Đông Á. Để giải quyết mục tiêu ổn định và phát triển thịnh vượng, Nhật Bản vừa phải củng cố sâu sắc mối liên kết, vừa tiếp tục viện trợ cho các nước Mekong.
Năm 2011, Nhật Bản cam kết dành 20 triệu USD cho các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam để phát triển hạ tầng mềm, như Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), Hành lang Hồ Chí Minh - Phnompenh - Bangkok; dành hơn 20 triệu USD cho hợp tác tam giác phát triển Campuchia, Lào và Việt Nam (2). Trong tổng số 21 tỷ USD viện trợ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội của GMS giai đoạn 2009 - 2015, Nhật Bản đã hỗ trợ các nước Mekong khoảng 13 tỷ USD (tương đương 1.100 tỷ Yên) và đã giải ngân khoảng 6,5 tỷ USD cho giai đoạn 2016 - 2018 (3).
Ngày 9-9-2021, tại Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) lần thứ 7 theo hình thức trực tuyến, kế hoạch Khung đầu tư khu vực năm 2022 được thông qua, bao gồm 227 dự án với tổng kinh phí gần 66 tỷ USD. Hội nghị thống nhất “Kế hoạch ứng phó đại dịch COVID-19 và phục hồi GMS giai đoạn 2021 - 2023” với các nội dung hợp tác rất cụ thể trên một số lĩnh vực, như y tế, nông nghiệp, du lịch, giao thông và thương mại. Có sáu nội dung hợp tác GMS giai đoạn 2021 - 2030 được đưa ra trong Hội nghị, gồm: 1- GMS cần ngăn chặn, đẩy lùi, kiểm soát dịch bệnh COVID-19 và xây dựng cơ chế phối hợp ứng phó với các dịch bệnh truyền nhiễm trong tương lai; 2- Bảo đảm chuỗi cung ứng khu vực không bị đứt gãy trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19; 3- Tạo đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng (giao thông, năng lượng) đồng bộ để nâng cao tính liên kết và sức cạnh tranh của các nền kinh tế; 4- Đẩy mạnh chuyển đổi số góp phần tạo động lực mới cho tăng trưởng, phục hồi kinh tế và thu hẹp khoảng cách phát triển; 5- Xây dựng GMS xanh, an toàn và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; 6- Tăng cường phối hợp giữa GMS với ASEAN và các cơ chế khu vực khác.
GMS trong cạnh tranh chiến lược của Trung Quốc
Từ năm 1992, khi Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tiến hành nhiều chương trình phát triển GMS, Trung Quốc đã nỗ lực kết nối tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) với các quốc gia trong khu vực GMS. Đối với Trung Quốc, GMS giữ vị trí là cầu nối để Trung Quốc vươn xa hơn sang các khu vực khác, cụ thể là sang các nước ASEAN nhằm cạnh tranh với vai trò đầu tàu của Nhật Bản ở Đông Nam Á.
Sau khi tham gia vào hợp tác GMS mở rộng, Trung Quốc thực hiện một loạt biện pháp nhằm tiến hành chương trình GMS, như: Thành lập Nhóm phối hợp nghiên cứu quốc gia về phát triển Tiểu vùng sông Lan Thương - Mekong (năm 1994); đầu tư hàng loạt dự án, trong đó chi 30 triệu USD cho việc xây dựng đường cao tốc Côn Minh - Bangkok chạy qua Lào; chi 5 triệu USD cho dự án cải tạo tuyến đường hàng hải tại khu vực sông Mekong thượng. Tại Hội nghị thượng đỉnh GMS lần thứ ba (năm 2008), Trung Quốc đẩy mạnh hợp tác giữa các nước thành viên GMS thông qua cam kết chi 20 triệu Nhân dân tệ (NDT) để tiến hành nghiên cứu tính khả thi của việc xây dựng đường tàu nối phần phía đông Singapore với Côn Minh (Trung Quốc). Trong Diễn đàn hàng lang kinh tế GMS được tổ chức tại Côn Minh (Trung Quốc, năm 2008), đại diện của 6 nước GMS nhất trí đẩy nhanh việc chuyển đổi giao thông, vận tải nhằm phát triển khu vực.
Sự ảnh hưởng của Trung Quốc đối với khu vực GMS ngày càng lớn do quan hệ thương mại và đầu tư giữa Trung Quốc và các nước GMS được thúc đẩy mạnh mẽ. Bất cứ sự bất ổn nào của thị trường Trung Quốc cũng đều ảnh hưởng đến các nước GMS. Bên cạnh đó, do mong muốn mở rộng tầm ảnh hưởng trong khu vực, tạo sự đối trọng với Nhật Bản trong cuộc cạnh tranh gay gắt giành vị trí lãnh đạo quá trình liên kết kinh tế ở Đông Á, Trung Quốc đẩy mạnh tham gia các hoạt động của ASEAN và ký kết Hiệp định khung về khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (CAFTA). Từ đó, Trung Quốc chủ trương định hình trật tự thế giới mới thông qua các kế hoạch, chiến lược, trong đó then chốt là Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) và kế hoạch “Made in China 2025”. Trung Quốc sử dụng BRI như một công cụ then chốt để lôi kéo các nước Đông Nam Á, bao gồm cả GMS vào quỹ đạo kinh tế, chính trị của mình nhằm gia tăng sự phụ thuộc về kinh tế, chính trị của khu vực vào Trung Quốc.
Ngoài ra, Trung Quốc thiết lập các quỹ tín dụng trị giá hàng chục tỷ USD cho các nước thuộc GMS vay với lãi suất ưu đãi nhằm phát triển kết cấu hạ tầng. Việc phát triển mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước GMS giúp Trung Quốc gia tăng khả năng cạnh tranh với Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU). Trung Quốc cũng đã đưa ra các bản báo cáo về việc tham gia GMS (năm 2002, 2005 và 2008) với sự phối hợp của ba cơ quan: Ủy ban Phát triển và Cải cách Nhà nước, Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính. Trong đó, nhấn mạnh mục tiêu của Trung Quốc khi tham gia hợp tác GMS, gồm các điểm chính: Một là, kết nối các vùng hành lang giữa Tây Nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam) với bán đảo Đông Dương; hai là, kết nối thị trường Tây Nam Trung Quốc và Đông Nam Á, đẩy mạnh hợp tác về kinh tế, khoa học - kỹ thuật ở nhiều cấp độ, dưới nhiều hình thức và ở nhiều lĩnh vực; ba là, hợp tác thông qua đối thoại và tăng cường triển khai các dự án chung nhằm hướng tới thiết lập hợp tác kinh tế cùng có lợi, xây dựng môi trường đầu tư và thương mại quốc tế thích hợp, xây dựng quan hệ hợp tác ổn định lâu dài giữa Trung Quốc và các nước ASEAN.
Đầu tư của Trung Quốc vào các nước GMS đã tăng nhanh kể từ khi thành lập CAFTA. Năm 2015, Trung Quốc hỗ trợ 5 tỷ USD cho các nước thuộc GMS nhằm xóa đói, giảm nghèo, khoảng 1 tỷ USD cho các dự án kết nối hạ tầng, hơn 10 tỷ USD cho Quỹ phát triển ASEAN và 11 tỷ USD cho 26 dự án hợp tác GMS mở rộng(4). Trung Quốc đã đầu tư khoảng 10 tỷ USD cho các dự án kết nối giao thông và cam kết đóng góp 300 triệu USD cho Quỹ đặc biệt hợp tác Mekong - Lan Thương cùng nhiều khoản vay ưu đãi và tín dụng. Tại Hội nghị thượng đỉnh GMS lần thứ 7 (tháng 9-2021), Ngân hàng ADB đã cấp 1,65 tỷ USD từ nguồn vốn riêng của ADB cho các dự án GMS và hỗ trợ huy động 773 triệu USD từ các đối tác phát triển khác.
Mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19, hợp tác GMS vẫn đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong quá trình triển khai Kế hoạch giai đoạn 2018 - 2022, nổi bật là việc hoàn thành 11 dự án giao thông với tổng vốn đầu tư là 2 tỷ USD. Những thành tựu do hợp tác GMS mang lại đã hỗ trợ hiệu quả, góp phần thúc đẩy hợp tác ASEAN - Trung Quốc ngày càng đi vào chiều sâu. Hội nghị thượng đỉnh GMS lần thứ 8 dự kiến sẽ được tổ chức tại Trung Quốc năm 2024.
Trong suốt quá trình đầu tư và phát triển hạ tầng giao thông tại GMS, Trung Quốc chú trọng chiến lược “Tiến về Tây Nam” nhằm thúc đẩy phát triển tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) trong định hướng phát triển với các quốc gia GMS. Chiến lược đầu tư hạ tầng của Trung Quốc nhằm đưa Vân Nam trở thành vùng tập trung giao thoa của hầu hết các tuyến đường bộ, đường sắt, viễn thông và năng lượng. Từ đó tiến hành các chính sách sản xuất và thương mại với các quốc gia khu vực GMS.
Đồng thời, Trung Quốc đưa ra chiến lược đối ngoại mới với tên gọi “một trục, hai cánh” với các nước Đông Nam Á (một trục là hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore, hai cánh là Hợp tác GMS mở rộng và Hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng). Trên cơ sở đó, Trung Quốc tăng cường tham gia các hoạt động hợp tác trong GMS với tư cách là một quốc gia, chứ không chỉ bao gồm hai tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây. Khi tham gia vào hoạt động của GMS, với tư cách là nước lớn, Trung Quốc không chỉ được lợi từ cơ hội mở rộng thị trường, gia tăng đầu tư, mà còn có những lợi ích mang lại từ hoạt động di chuyển lao động trong tiểu vùng. Khu vực GMS hấp dẫn Trung Quốc bởi nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Để đáp ứng nhu cầu về tài nguyên, nhiên liệu cho sản xuất trong nước, Trung Quốc tăng cường đầu tư khai thác tài nguyên thiên nhiên trên khắp thế giới, mà GMS là một trong những địa điểm Trung Quốc hướng tới. Vì vậy, có thể nói rằng, khu vực GMS đóng vai trò chiến lược hết sức quan trọng đối với Trung Quốc.
Một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
Việt Nam có diện tích khoảng 71 nghìn km2 trong khu vực sông Mekong, chiếm hơn 8% diện tích toàn lưu vực và 20% diện tích Việt Nam, nên GMS có ý nghĩa chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh, đối ngoại, kinh tế và văn hóa - xã hội với Việt Nam. Nằm ở cửa ngõ phía đông của GMS, Việt Nam có vị trí và vai trò quan trọng trong kết nối khu vực và phát triển kinh tế, là một động lực tăng trưởng quan trọng, một nhân tố không thể thiếu trong việc triển khai các sáng kiến liên kết kinh tế trong hợp tác GMS. Giữ vai trò là “cửa ngõ”, là “điểm rơi” trong chiến lược can dự vào GMS của các nước lớn, Việt Nam cần tăng cường các hoạt động ngoại giao song phương, phát huy tối đa vai trò cầu nối trong phát triển giữa các nước trong khu vực sông Mekong với nhau và với các đối tác Nhật Bản, Trung Quốc, tận dụng triệt để các cơ chế hợp tác hiện có, như Ủy hội sông Mekong (MRC) và ASEAN.
Trên thực tế, Việt Nam tham gia tích cực Chương trình hợp tác kinh tế GMS ngay từ khi chương trình được thành lập năm 1992, mang lại nhiều kết quả tích cực trong phát triển kinh tế và xóa đói, giảm nghèo, cũng như góp phần gia tăng liên kết kinh tế khu vực. Khu vực GMS có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là đối với đồng bằng sông Cửu Long thuộc hạ lưu sông Mekong. Việt Nam tham gia nhiều cơ chế hợp tác khác của GMS, như Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawaddy - Chao Phraya - Mekong (ACMECS), các chương trình về tam giác phát triển, Chương trình phát triển hành lang kinh tế Đông - Tây, Bắc Nam và phía Nam, Hợp tác phát triển ASEAN - lưu vực sông Mekong (AMBDC), Chương trình hợp tác song phương “Hai hành lang, một vành đai” với Trung Quốc.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều chuyển biến phức tạp, các nước lớn cạnh tranh khu vực để mở rộng tầm ảnh hưởng, đặt ra cả cơ hội, thách thức đối với các nước GMS, trong đó có Việt Nam. Việt Nam cần chủ động, tích cực hơn để xây dựng môi trường quốc tế và khu vực hòa bình, ổn định, có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững; cần tận dụng vị thế địa - chiến lược của mình, vừa tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và các nước lớn, vừa chủ động ứng phó với những tác động tiêu cực từ sự hợp tác và cạnh tranh giữa các nước lớn. Vì vậy, việc gia tăng hợp tác cũng như trở thành vai trò “đầu tàu” trong hợp tác GMS là một lựa chọn hợp lý của Việt Nam trong cả hiện tại và tương lai. Một khu vực Đông Nam Á lục địa với dòng sông Mekong phát triển bền vững không chỉ có lợi cho sự phát triển của Việt Nam, mà còn có lợi cho hòa bình, ổn định, hợp tác của khu vực và thế giới.
Để nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, với các nước trong GMC, Việt Nam cần:
Thứ nhất, nhận thức rõ và tận dụng vai trò là “cửa ngõ”, là “điểm rơi” trong chiến lược can dự vào Tiểu vùng của các nước lớn. Cần xem xét vấn đề sông Mekong quan trọng như vấn đề Biển Đông trong chiến lược an ninh quốc gia. Nhìn nhận được tầm quan trọng của khu vực GMS không chỉ đối với an ninh, phát triển bền vững của Việt Nam, mà còn đối với toàn khu vực, để từ đó phát huy vị thế của Việt Nam trên một tầm nhìn rộng lớn hơn.
Thứ hai, tăng cường các hoạt động ngoại giao song phương và đa phương với các nước trong khu vực GMS và các nước lớn ngoài khu vực để duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước và thúc đẩy môi trường hợp tác hòa bình, ổn định; tăng cường tổ chức các cuộc hội thảo quốc tế về hợp tác phát triển trong GMS và cơ chế hợp tác với các nước lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… để có thể thu thập được nhiều sáng kiến và khuyến nghị có ích của các học giả, góp phần vào công cuộc bảo vệ lợi ích của quốc gia trong khu vực.
Thứ ba, tiếp tục phát huy vai trò “cầu nối” của Việt Nam để đưa các nước thuộc GMS cùng với các đối tác lớn, như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia, EU thúc đẩy phát triển hợp tác. Phát huy tốt vai trò này chính là sự thể hiện năng lực ngày càng lớn mạnh của Việt Nam trong cạnh tranh, hội nhập quốc tế và cũng là điều kiện giúp Việt Nam có thể tận dụng tối đa sáng kiến của các nước lớn, góp phần phát triển bền vững khu vực GMS.
Thứ tư, cần có chiến lược tổng thể khi Việt Nam tham gia các cơ chế hợp tác khu vực sông Mekong để quá trình hợp tác mang lợi ích trước mắt và lâu dài trên cơ sở lợi ích quốc gia và lợi ích toàn khu vực. Tiếp tục gắn kết mối quan hệ cầu nối kinh tế và đầu tư giữa Mỹ với GMS, tăng thúc đẩy liên kết hợp tác giữa Mỹ và các nước Tiểu vùng GMS trong xử lý các vấn đề quốc tế, khu vực mà các bên cùng quan tâm.
Thứ năm, là quốc gia thuộc nhóm các nước phát triển hơn trong GMS và có nhiều thành tựu ấn tượng trong tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị trong hợp tác GMS thông qua sự tham gia vào các hoạt động của khu vực. Tầm quan trọng của khu vực GMS ngày càng tăng sẽ thu hút được sự quan tâm của nhiều nước lớn, đó sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam cũng như các nước trong GMS tranh thủ thêm các nguồn viện trợ về nhiều mặt từ bên ngoài.
Trong quan hệ với Trung Quốc, để có thể hợp tác một cách toàn diện, tranh thủ nắm bắt được những cơ hội đầu tư tốt từ phía Trung Quốc, Việt Nam cần chủ động trong việc đề xuất các nội dung hợp tác có lợi cho phát triển kinh tế đất nước, chủ động, tích cực trao đổi với Trung Quốc về các vấn đề liên quan tới hợp tác GMS và BRI. Mặc dù còn tồn tại một số bất đồng với Trung Quốc trong vấn đề giải quyết tranh chấp và khai thác khu vực sông Mekong, song Việt Nam cần xây dựng quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để có thể ứng phó với những biến động xảy ra trong quá trình hoạt động kinh tế, môi trường và sinh hoạt của người dân tại khu vực này.
Việt Nam cần tận dụng vị thế của mình trong cơ chế Hợp tác Lan Thương - Mekong bởi đây là nền tảng đa phương, được xem là diễn đàn để Trung Quốc thúc đẩy đối thoại hợp tác kinh tế và mở rộng kết cấu hạ tầng với các nước trong khu vực. Cùng với các hợp tác trong Sáng kiến BRI, Hợp tác Lan Thương - Mekong sẽ định hình vị thế ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực GMS. Vì vậy, Việt Nam cần có đối sách ngoại giao linh hoạt để bảo đảm lợi ích và vị thế chính trị của Việt Nam ở các thị trường truyền thống, như Lào và Campuchia. Bởi thực tế, kinh phí đầu tư và viện trợ của Trung Quốc dành cho Lào và Campuchia liên tục tăng mạnh và đã vượt qua Việt Nam, trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại hai quốc gia này.
Trong quan hệ với Nhật Bản, là quốc gia đồng thời tham gia cơ chế Hợp tác kinh tế toàn diện khu vực ASEAN (RCEP có sự tham gia của Trung Quốc) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP có sự tham gia của Nhật Bản) trong tiểu vùng, Việt Nam cần thể hiện một chính sách đối ngoại để giảm thiểu sự cạnh tranh, tạo thế cân bằng lực lượng, giúp khu vực ổn định và phát triển thịnh vượng.
Trong quá trình tham gia CPTPP, Việt Nam cần sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn viện trợ (ODA) của Nhật Bản, gắn kết ODA vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chú trọng đưa nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tập trung vào những ngành công nghiệp mũi nhọn phục vụ cho công nghiệp chế tạo và các ngành công nghiệp phụ trợ. Tận dụng sự hỗ trợ của Nhật Bản và tăng cường hợp tác với Nhật Bản trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh để nâng cao tiềm lực quốc phòng. Trên cơ sở “tăng trưởng xanh” là nội dung quan trọng trong quan hệ hợp tác Nhật Bản - Mekong giai đoạn 2020 - 2030, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc bảo vệ môi trường, xây dựng các thành phố sử dụng công nghệ “xanh, sạch” để phát triển một cách bền vững.
Như vậy, chiến lược cạnh tranh ảnh hưởng của Nhật Bản và Trung Quốc ở khu vực GMS nói riêng và Đông Á nói chung, dù là gia tăng can dự để hợp tác hay là để kìm chế tầm ảnh hưởng lẫn nhau, cũng đều tạo ra những tác động nhất định đến quá trình phát triển của Việt Nam. Tăng cường thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc và Nhật Bản trên tất cả các lĩnh vực, đồng thời khai thác có hiệu quả vị thế “cửa ngõ”, “đầu cầu”, “hạt nhân đoàn kết” trong khu vực là những hoạt động hết sức cần thiết, là yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm thực hiện thành công chiến lược “đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới./.
----------------------------
(1) Sở Ngoại vụ Tiền Giang: “Có 6 lý do lạc quan để phát triển GMS”, songoaivu.tiengiang.gov.vn/nghiep-vu-ngoai-giao/-/asset_publisher/QSpp7P8RukDa/content/co-06-ly-do-lac-quan-e-phat-trien-gms
(2) Bùi Thanh Sơn: “Việt Nam và hợp tác phát triển tiểu vùng sông Mê Công”, https://sngv.thuathienhue.gov.vn/?gd=11&cn=146&tc=1050, ngày 16-2-2012
(3) Nguyễn Xuân Phúc: “Mê Công - Dòng sông hợp tác và phát triển”, https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/me-cong-dong-song-hop-tac-va-phat-trien-319838/, ngày 28-3-2018
(4) “Năm tăng cường kết nối trong Tiểu vùng Mekong”, https://vnembassy-praha.mofa.gov.vn/vi-vn/About%20Vietnam/General%20Information/Economic/Trang/GMS-5-enhanced-connectivity-in-the-Mekong-Sub-region.aspx?p=14
Diễn biến mới trong quan hệ giữa các nước nhìn từ Thỏa thuận lịch sử Mỹ - Anh - Australia  (26/11/2021)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính hội đàm, hội kiến và tiếp các nhà lãnh đạo cấp cao Nhật Bản  (24/11/2021)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tới Tokyo bắt đầu chuyến thăm chính thức Nhật Bản  (24/11/2021)
Thế giới trước thách thức đói nghèo  (18/11/2021)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị Cấp cao liên quan giữa ASEAN với các đối tác  (28/10/2021)
Văn hóa cầm quyền của lãnh đạo Singapore  (29/09/2021)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam