Thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền của Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới

Thiếu tá, ThS. Phạm Thị Thanh Huế Học viện Biên phòng
22:26, ngày 18-10-2017

TCCSĐT - Bài viết bàn về vai trò và những yêu cầu mới đối với việc thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền của Bộ đội Biên phòng trong điều kiện tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

Việt Nam có đường biên giới quốc gia trên đất liền với tổng chiều dài khoảng 4.610km, phía Bắc giáp Trung Quốc (1.449,566km), phía Tây giáp Lào (2.067km), phía Tây Nam giáp Campuchia (1.137km). Biên giới được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia có lãnh thổ tiếp giáp với nhau, thể hiện trong các điều ước hoạch định biên giới quốc gia, đánh dấu trên thực địa bằng các cột mốc quốc giới. Công tác quản lý biên giới quốc gia trên đất liền đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Nhà nước. Pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền là phương tiện hữu hiệu để bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền quốc gia; cơ sở củng cố mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước có chung đường biên giới quốc gia trên đất liền, thực hiện chính sách đối ngoại, tiến hành tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho công dân nâng cao ý thức pháp luật về chủ quyền quốc gia; căn cứ pháp lý xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với các nước khác.

Bộ đội Biên phòng với vai trò thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền

Từ năm 1958, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chủ trương “quyết định thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, bờ bể, giới tuyến và các lực lượng công an vũ trang, xây dựng thành một lực lượng vũ trang của Đảng và Nhà nước chuyên trách công tác bảo vệ nội địa và biên phòng… lấy tên là lực lượng cảnh vệ”(1) (sau đó đổi tên thành Công an nhân dân vũ trang(2) - nay là Bộ đội Biên phòng). Hiện nay, Bộ đội Biên phòng được xác định là “lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu theo phạm vi, nhiệm vụ do pháp luật quy định và là một lực lượng thành viên trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới”(3). Do vậy, thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền của Bộ đội Biên phòng có vai trò đặc biệt quan trọng.

Một là, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực hiện nay, mặc dù hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng vẫn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Nhận thức rõ những yêu cầu, đòi hỏi bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta đã có những chủ trương, chính sách lớn về quốc phòng, an ninh, được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, xác định: “Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ đất nước, vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới; tạo lập được môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ đối ngoại; không ngừng tăng cường thế và lực của đất nước”.

Thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền của Bộ đội Biên phòng là một phần của việc hiện thực hóa các mục đích, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trải qua gần 60 năm xây dựng và trưởng thành, Bộ đội Biên phòng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý biên giới quốc gia trên đất liền; cùng với quân, dân cả nước giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Bằng những hoạt động cụ thể, Bộ đội Biên phòng đã triển khai những nội dung thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền, như: tích cực, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước đàm phán với các nước láng giềng ký kết những điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trên biên giới, giữ vững chủ quyền lãnh thổ với nguyên tắc mềm dẻo, kiên trì; thực hiện tốt các biện pháp công tác biên phòng nhằm ngăn chặn xung đột, phòng chống gián điệp, chiến tranh tâm lý, triệt phá các tổ chức phản động, đấu tranh chống xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới và chống các loại tội phạm, đổi mới công tác xuất - nhập cảnh tại các cửa khẩu biên giới; xây dựng, củng cố lực lượng Bộ đội Biên phòng; tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào nơi biên giới; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng…

Hai là, góp phần tăng cường hiệu quả chính sách đối ngoại của Việt Nam

Trải qua hơn 30 năm đổi mới, thực hiện phương châm chung của chính sách đối ngoại là đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế, mở rộng giao lưu, hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, trên nguyên tắc phải bảo đảm tính độc lập, tự chủ của Nhà nước Việt Nam và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; Việt Nam đã mở rộng và đưa vào chiều sâu các mối quan hệ quốc tế. Định hướng chính sách đối ngoại trên được triển khai ở tất cả các loại hình: song phương, đa phương, đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân. Trong đó, đối ngoại biên phòng - một trong những nội dung thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia - thuộc trách nhiệm của Nhà nước nói chung và Bộ đội Biên phòng nói riêng. Các hoạt động đối ngoại biên phòng thuộc thẩm quyền của Bộ đội Biên phòng như công tác tham mưu thực hiện quản lý nhà nước về biên giới quốc gia; tham gia các đoàn đàm phán, trao đổi giải quyết các vấn đề liên quan đến thực hiện điều ước quốc tế về biên giới; phối hợp với các lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng tuần tra, kiểm soát, đấu tranh chống tội phạm và các hoạt động khác; trao đổi tình hình, mời, thăm xã giao, đón tiếp lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng; tổ chức sơ kết, tổng kết công tác đối ngoại biên phòng,… đã góp phần khẳng định hiệu quả chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Ba là, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực biên giới

Hoạt động của Bộ đội Biên phòng gắn liền với địa bàn khu vực biên giới, nên trong quá trình thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền, Bộ đội Biên phòng có nhiệm vụ xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện, “tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở miền núi, vùng sâu, vùng xa biên giới, hải đảo, góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc, giữ vững ổn định biên giới và vùng biển là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài của Bộ đội Biên phòng”(4). Khẳng định vai trò trên, Bộ đội Biên phòng đã cùng với chính quyền địa phương ở khu vực biên giới triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng đường giao thông, đường dây điện, công trình thủy lợi, khai hoang, trồng rừng, vận động nhân dân phá nhổ cây thuốc phiện, định canh, định cư; triển khai các chương trình xóa đói, giảm nghèo; tổ chức các chương trình xã hội hóa giáo dục - đào tạo; chương trình quân dân y kết hợp…; qua đó góp phần quan trọng xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện.

Bốn là, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở khu vực biên giới

Trong quá trình thực hiện pháp luật, Bộ đội Biên phòng trực tiếp góp phần bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân ở khu vực biên giới. Thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ đội Biên phòng đã giúp nhân dân khu vực biên giới hiểu rõ về nội dung, trình tự, thủ tục thực hiện quyền công dân, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, tránh bị kẻ xấu lợi dụng để kích động, tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa; qua công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền, Bộ đội Biên phòng tích cực bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật cho công dân ở khu vực biên giới; qua việc phối hợp với các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc tham gia phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, Bộ đội Biên phòng góp phần hiện thực hóa có hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa ở khu vực biên giới...

Năm là, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia

Pháp chế xã hội chủ nghĩa được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Bộ đội Biên phòng. Thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền của Bộ đội Biên phòng là sự đáp ứng đòi hỏi đó của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều này thể hiện: tổ chức và hoạt động trong quản lý về biên giới quốc gia trên đất liền phải theo đúng quy định của pháp luật; cá nhân, cơ quan, đơn vị trong Bộ đội Biên phòng luôn tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống nhất; khi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý; việc cải cách và hoàn thiện bộ máy tổ chức của Bộ đội Biên phòng phải dựa trên những quy định của pháp luật. Tuân thủ những yêu cầu trên bảo đảm cho Bộ đội Biên phòng có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền rõ ràng, cụ thể; trật tự, kỷ cương được tăng cường; phẩm chất, năng lực của cán bộ, chiến sĩ được giữ vững, phát huy; hiệu lực và hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị trong lực lượng Bộ đội Biên phòng được nâng cao.

Những yêu cầu đối với việc thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền của Bộ đội Biên phòng trong tình hình hiện nay

Trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu “tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(5), góp phần thực hiện mục tiêu tổng quát được đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng “Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”(6); quá trình thực hiện pháp luật về quản lý biên giới trên đất liền của Bộ đội Biên phòng đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới cần được tăng cường thực hiện.

Thứ nhất, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và vận dụng sáng tạo trong thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền.

Đây là là yêu cầu quan trọng, nhằm bảo đảm hoạt động thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền của Bộ đội Biên phòng đúng định hướng và mục tiêu chính trị của Đảng; phản ánh tập trung mong muốn, nguyện vọng, ý chí của toàn thể nhân dân.

Đại hội XII của Đảng đã nêu lên nhận thức mới về bảo vệ Tổ quốc, thể hiện trong các vấn đề: mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; quan điểm chỉ đạo, phương châm, sức mạnh, lực lượng, phương thức bảo vệ Tổ quốc; mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc(7). Trong đó, quan điểm then chốt đối với công tác biên phòng nói chung và thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia nói riêng là: Quán triệt định hướng chiến lược, mục tiêu lâu dài là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Phương pháp và căn cứ giải quyết các bất đồng, tranh chấp: Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Các chủ trương, giải pháp đối với quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo; giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Thứ hai, chủ động hiện thực hóa mục tiêu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thực hiện chủ trương của Đảng trong hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, quá trình thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền của Bộ đội Biên phòng cần phải đặc biệt chú ý: Mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện pháp luật về quản lý biên giới quốc gia phải bảo đảm căn cứ pháp lý vững chắc (trên cơ sở các quy định, thỏa thuận trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực thi hành). Quá trình thực hiện cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật trong nước, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, sự phù hợp với nội dung các điều ước quốc tế và tính hệ thống của pháp luật. Đề cao yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động, đặc biệt là nghiêm chỉnh tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền đối với mọi cán bộ, chiến sĩ; thực hiện tốt nguyên tắc hành vi “chỉ được làm những gì pháp luật cho phép” trong quá trình thực hiện pháp luật. Luôn quán triệt tính dân chủ triệt để; chú trọng bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân (nhất là bảo đảm quyền của người dân vùng dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa). Sẵn sàng tiếp nhận và giải quyết hợp lý, hợp pháp những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giải thích pháp luật, làm cho “dân hiểu, dân tin, dân làm theo” chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, “dân ủng hộ, bảo vệ” lực lượng vũ trang, đấu tranh với những phần tử xấu, phản động. Tạo điều kiện tối đa để nhân dân tham gia quản lý biên giới quốc gia trên đất liền, thực hiện tốt Chỉ thị 01/CT-TTg, ngày 09-01-2015, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc tổ chức phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới”, qua đó khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”. Hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức, cá nhân (trước hết và chủ yếu là công dân ở khu vực biên giới đất liền tại 25 tỉnh; 103 huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; 435 xã, phường, thị trấn khu vực biên giới đất liền (8) thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với công tác quản lý biên giới quốc gia phù hợp với quy định của pháp luật.

Thứ ba, tích cực cung cấp luận cứ thực tiễn cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền.

Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24-5-2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 nêu lên yêu cầu “Hoàn thiện pháp luật về biên giới quốc gia, vùng biển, vùng trời; về tổ chức, hoạt động lực lượng vũ trang nhân dân”(9). Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định rõ hơn chủ trương “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật”(10). Thực tiễn thi hành pháp luật nói riêng, thực hiện pháp luật nói chung là môi trường kiểm nghiệm rõ nhất, khách quan nhất về chất lượng, hiệu quả của pháp luật; đồng thời cũng là cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật theo các tiêu chí tính toàn diện; thống nhất, đồng bộ; tính phù hợp, khả thi; ngôn ngữ và kỹ thuật xây dựng văn bản; tính hiệu quả của hệ thống pháp luật(11) dưới góc độ thực tiễn. Điều đó đặt ra yêu cầu thực hiện pháp luật cần cung cấp những luận cứ thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật. Trong đó, những đòi hỏi của thực tiễn quản lý biên giới quốc gia về nhu cầu điều chỉnh pháp luật; sự gắn bó mật thiết, cấu trúc của quy phạm pháp luật; tính thống nhất về nội dung, thứ bậc hiệu lực pháp lý; sự phù hợp của quy định pháp luật quản lý biên giới quốc gia với điều kiện kinh tế, điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội, quy định khác của pháp luật quốc gia và quốc tế; khả năng triển khai trên thực tế các quy định của pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền; trình độ kỹ thuật thể hiện trong ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật,… là những vấn đề không thể thiếu “chất liệu thực tiễn”. Vì thế, cần đề cao vai trò của các nhà hoạt động thực tiễn; phản biện xã hội của các cơ quan, tổ chức; công tác sơ kết, tổng kết thực hiện pháp luật. Từ đó, có giải pháp đúng đắn, kịp thời khắc phục hạn chế về nội dung và hình thức của pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền; hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền. Trong đó, nghiên cứu thể chế hóa các quan điểm mới của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 trong Luật Biên giới quốc gia; ban hành Luật Bộ đội Biên phòng, khắc phục những nội dung mâu thuẫn, lạc hậu không phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới; sửa đổi chế độ chính sách phù hợp với đội ngũ cán bộ công tác lâu năm trên địa bàn khu vực biên giới; quán triệt quan điểm giữ ổn định lâu dài tổ chức, hoạt động Bộ đội Biên phòng theo chủ trương của Đảng trong các văn bản pháp luật…/.

----------------------------------------------------------

(1) Bộ Chính trị (1958), Nghị quyết số 58-NQ/TW, ngày 19-11-1958, về việc xây dựng lực lượng cảnh vệ nội địa và biên cương
(2) Chính phủ (1959), Nghị định số 100/TTg, ngày 03-3-1959, của Thủ tướng Chính phủ về việc thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng, công an biên phòng, cảnh sát vũ trang thành công an nhân dân vũ trang
(3) Ủy ban thường vụ Quốc hội (1997), Điều 1 Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng
(4) Bộ Tư lệnh BĐBP (2000), Chỉ thị số 31/CT-BTL, ngày 28-4-2000, của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng về “tăng cường tham gia các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các xã, phường biên giới hải đảo”
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.79
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.76
(7) GS, TS. Phùng Hữu Phú, PGS, TSKH. Nguyễn Văn Đặng, PGS, TS. Nguyễn Viết Thông, Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.28-32.
(8) Chính phủ (2014), Nghị định số 34/2014/NĐ-CP, ngày 29-4-2014, của Chính phủ về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(9) Mục 5 Phần II. Định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24-5-2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.176
(11) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2015, tr.482 - 485.