Từ sớm, Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Phát huy các giá trị văn hóa là góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thực hiện thành công các mục tiêu được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về văn hóa

Tháng 2-1943, trước yêu cầu của thực tiễn cách mạng, Tổng Bí thư Trường Chinh đã khởi thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam. Tuy mới chỉ ở dạng “Đề cương”, với khoảng 1.500 từ, nhưng bản Đề cương về văn hóa Việt Nam là văn kiện xúc tích, ngắn gọn được đánh giá như là bản Cương lĩnh của Đảng về văn hóa, khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng khi nhận thức rõ sự cần thiết phải kết hợp các lĩnh vực, các mặt trận trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc giành độc lập, để từ đó tạo nên sức mạnh tổng hợp khi xác định văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng cùng với chính trị và kinh tế. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó người cộng sản phải hoạt động; Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa; Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả(1).

Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp “kháng chiến kiến quốc”, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có 3 nhiệm vụ thuộc về văn hóa: Giải quyết nạn dốt;… Giáo dục tinh thần của nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính;… và đề nghị Chính phủ tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết(2).

Đường lối văn hóa kháng chiến của Đảng từng bước được hình thành trong quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến giải phóng dân tộc. Đường lối đó được thể hiện trước hết trong Chỉ thị “Kháng chiến Kiến quốc” của Trung ương Đảng, ngày 25-11-1945 và bức thư của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 16-11-1946 về “Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay”. Trong đó chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ về văn hóa: “chống nạn mù chữ, cải cách giáo dục theo tinh thần mới, mở đại học và trung học, xây dựng nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học hóa, dân tộc hóa, đại chúng hóa”(3).

Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, ngày 24-11-1946, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất. Diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò, nhiệm vụ của văn hóa trong tình hình mới: Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở…Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ… Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi... (4). Tháng 7-1948, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn khốc liệt, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai được tổ chức tại Việt Bắc. Hội nghị đã được nghe Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày Báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”. Báo cáo đã chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của văn hóa Việt Nam, hệ thống hóa, cụ thể hóa và phát triển quan điểm của Đảng được nêu ra trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943.

Cùng với những quan điểm của Đảng, thông qua các bài viết, bài nói chuyện tại các Hội nghị văn hóa toàn quốc, với giới văn nghệ sỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của văn hóa và đội ngũ cán bộ văn hóa đối với sự nghiệp “Kháng chiến Kiến quốc”. Đồng thời, Người có những ý kiến chỉ đạo sâu sắc mang tính định hướng, chiến lược về đường lối văn hóa, văn nghệ nước nhà. Trong thư gửi Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (tháng 7-1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vĩ đại của dân tộc, văn hóa gánh một phần rất quan trọng. Từ ngày chính quyền dân chủ thành lập đến nay, các nhà văn hóa ta đã cố gắng và đã có thành tích. Song từ nay trở đi chúng ta cần phải xây dựng một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân (5).

Trong tác phẩm Đời sống mới, xuất bản năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có kiến giải sâu sắc về những vấn đề thiết thực trong đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa. Thư gửi các họa sĩ nhân dịp Triển lãm hội họa, đăng trên Báo Cứu quốc, ngày 5-1-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa, nghệ thuật đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như đội ngũ những người làm công tác văn hóa, họ luôn xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng trên mặt trận văn hóa - nghệ thuật: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy,… Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị,… Chính trị, kinh tế, văn hóa đều phải coi là quan trọng ngang nhau(6). 

Sau tháng 7-1954, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng hai miền, nhiều văn kiện của Đảng về văn hóa, như Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II (năm 1957), lần thứ III (năm 1962); Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960),… được ban hành đã xác định đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Cùng với đó, nhiều bài viết, bài nói chuyện của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đặc biệt là các bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, văn nghệ được công bố đã nhận được sự hoan nghênh của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cả nước.

Thông qua các văn kiện, tác phẩm đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Dân tộc - khoa học - đại chúng vẫn là những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam và tiếp tục được bổ sung, phát triển trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời khẳng định, văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách mạng được tiến hành đồng thời và gắn kết chặt chẽ với các cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kĩ thuật là then chốt(7). 

Sau tháng 4-1975, đất nước thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đường lối, quan điểm của Đảng về văn hóa tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976), lần thứ V (năm 1982), lần thứ VI (năm 1986) của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII (tháng 6-1991) thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có sáu đặc trưng, trong đó xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đồng thời đề ra phương hướng xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam là “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lê-nin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội”.

Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, ngày 16-7-1998, đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW, về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết chỉ rõ: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,…

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân…”

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006) nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.

Văn học, nghệ thuật cũng là một trong những lĩnh vực được Đảng quan tâm, chỉ đạo, trên cơ sở đó, ngày 16-6-2008, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam…”

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Cương lĩnh nêu ra tám phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Đồng thời, Đại hội đã đề ra định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam trong tình hình mới: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”.

Để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, tiếp tục phát huy vai trò trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, ngày 9-6-2014, ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Nghị quyết nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học… Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”. Nghị quyết số 33-NQ/TW ra đời là sự tiếp tục phát triển tư duy lý luận và sáng tạo của Đảng trong việc nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là xác định yếu tố con người, xác định phương hướng, đặc trưng, động lực, tính chất đặc thù của văn hóa.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) xác định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(8).

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế,… Nâng cao vai trò của văn hóa, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của con người Việt Nam, nhất là trong thế hệ trẻ”(9). 

Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Trên cơ sở kế thừa các nghị quyết, văn kiện của Đảng về phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập kinh tế quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số(10).

Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay cần lưu ý một số nội dung sau đây:

Trước hết, xác định rõ xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam là một quá trình lâu dài mang tầm chiến lược, vừa mang tính kết hợp, vừa sáng tạo và xác lập những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức mới. Qua đó, khơi dậy, lan tỏa, bảo tồn những giá trị, chuẩn mực đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để bổ sung, phát triển giá trị văn hóa dân tộc phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại.

Để xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, Đại hội XIII đã chỉ rõ: Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc(11). Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa chính là phát huy niềm tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, tinh thần sáng tạo, cần cù, dũng cảm, thông minh, tinh thần cống hiến hy sinh vì đất nước, khát vọng phát triển, truyền thống đoàn kết nhân ái, đồng thuận xã hội,… tạo thành sức mạnh tổng hợp tạo động lực thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững. Sức mạnh con người Việt Nam chính là nguồn lực quan trọng nhất, vừa là chủ thể vừa là mục tiêu, trung tâm của sự phát triển, là sức mạnh nội sinh cho sự phát triển bền vững. Do vậy, vấn đề đặt ra trong việc phát huy giá trị văn hóa phải gắn liền với quá trình gìn giữ, bảo vệ và hoàn thiện giá trị chuẩn mực con người Việt Nam, đồng thời khơi dậy tiềm năng, sức mạnh, tinh thần sáng tạo của con người trong các lĩnh vực. Mọi hoạt động của văn hóa đều phải hướng tới mục tiêu phát triển, hoàn thiện hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức: Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc(12). 

Thứ hai, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam cần: Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với gìn giữ, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Đồng thời, thường xuyên chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng, bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử văn hóa dân tộc, ngăn chặn hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực và các tệ nạn xã hội.

Trước thực trạng một số mặt đạo đức, lối sống trong gia đình, học đường và xã hội có biểu hiện xuống cấp, gây lo ngại, bức xúc trong xã hội; nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục đối với việc nâng cao đạo đức, lối sống, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: Cần thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội(13). Đồng thời, tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội của các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam (14). Chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách, tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ; gắn giáo dục đức, trí, thể, mĩ với việc nâng cao tầm vóc con người Việt Nam. Đổi mới căn bản, toàn diện nội dung, chương trình giáo dục đào tạo, từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người.

Thứ ba, xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh. Thực tiễn 37 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền văn hóa Việt Nam chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình, văn hóa chưa tương xứng với sự phát triển của kinh tế và chính trị. Để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước, trước hết cần xác định đúng tầm quan trọng của văn hóa trong xây dựng con người, cần phải có những tác phẩm văn hóa, văn học - nghệ thuật tầm cỡ phản ánh sinh động tầm vóc của công cuộc đổi mới hiện nay, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm của văn hóa nước ta những năm qua: Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động tầm vóc công cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực(15).

Để phát huy giá trị văn hóa, đưa văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, góp phần quan trọng trong việc giáo dục - đào tạo con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước bền vững, cần phải có cơ chế, chính sách, giải pháp xây dựng môi trường văn hóa thực sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân theo phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân dám sát, dân hưởng thụ”. Đồng thời, xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước(16). 

Thứ tư, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh(17). Để phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định cần không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả các loại hình văn hóa, văn nghệ, có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong việc xây dựng con người và phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ năm, tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa. Để phát huy vai trò, giá trị của văn hóa và sức mạnh con người, công tác tăng cường đầu tư, khai thác có hiệu quả, phát huy tối đa nguồn lực của văn hóa gắn liền với đổi mới nội dung, phương thức quản lý ngày càng trở nên cần thiết. Cùng với đó, trong quá trình đầu tư, khai thác cần phải có trọng điểm, tránh tình trạng dàn trải, kém hiệu quả, tăng cường kiểm tra, giám sát, hoàn thiện các thiết chế văn hóa. Đào tạo, tuyển dụng, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa, văn nghệ thực sự có trình độ am hiểu về văn hóa, có phẩm chất đạo đức, chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế(18)./.

-----------------------

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 318
(2) Xem: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 1 - 3 
(3)
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t. 3, tr. 46
(4) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 246 - 247
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t. 5, tr. 677

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t. 7, tr. 246
(7) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t. 37, tr. 998
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 126 
(9)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 262
(10) 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 202 
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 34
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 115 - 116
(13), (14) V
ăn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 143
(15) 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 84
(16) 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 116 
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 144
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 147