Cải cách giáo dục và đào tạo ở Nhật Bản hiện nay
Học sinh Nhật Bản trong giờ học diễn tập
đối phó với tình hình xảy ra động đất |
Cho đến trước thập niên 90 thế kỷ XX, Nhật Bản đã trải qua hai lần đại cải cách giáo dục - đào tạo (GD - ĐT) nhờ đó mà người Nhật đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên, khâm phục về những kỳ tích phát triển. Song hiện nay, Nhật Bản vẫn đang phải tiếp tục thực hiện cải cách GD - ĐT lần thứ ba.
Vì sao phải cải cách giáo dục - đào tạo?
Từ khoảng những năm 1980 trở đi, hệ thống GD - ĐT Nhật Bản đã tỏ ra ngày càng bất cập, có những yếu tố không còn phù hợp với hoàn cảnh mới của đất nước cũng như môi trường cạnh tranh quốc tế và khu vực.
Thứ nhất, chức năng giáo dục của gia đình và cộng đồng đã suy giảm đáng kể. Trong trường học, các tệ nạn: bỏ học, bạo lực và các hành vi lệch chuẩn đạo đức đã gia tăng nhanh.
Thứ hai, xu hướng nhiều thanh niên thờ ơ với những vấn đề xã hội ngày càng gia tăng. Môi trường sống của các em nhỏ cũng đang có nhiều thay đổi theo hướng chúng bị mất dần những cơ hội giao tiếp để tạo dựng các mối quan hệ với cộng đồng xã hội xung quanh.
Thứ ba, do việc giáo dục mang tính bắt buộc, “nhồi nhét” kiến thức và chủ nghĩa bình quân quá mức đã phản tác dụng làm tổn hại đến giáo dục, làm cho giáo dục không còn phù hợp với khả năng và cá tính năng động của mỗi học sinh, thậm chí có nguy cơ biến học sinh thành những “người máy” chỉ biết làm theo mệnh lệnh và công thức cứng nhắc.
Thứ tư, trong tình hình cạnh tranh kinh tế, xã hội, khoa học - kỹ thuật, quá trình toàn cầu hóa kinh tế và thông tin hóa... ngày càng quyết liệt, nên toàn bộ hệ thống giáo dục hiện hành từ giáo dục phổ thông đến giáo dục cao đẳng dạy nghề, đại học, sau đại học lẽ ra cũng chịu ảnh hưởng phải thích ứng theo để cùng cạnh tranh và phát triển thì trên thực tế chưa thể đáp ứng được yêu cầu đó, dẫn đến tình trạng nhiều người tuy có đủ bằng cấp, chứng chỉ song lại bất cập trước những công việc mà xã hội yêu cầu.
Không những thế, cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng kéo dài suốt từ cuối những năm 80 cho đến năm 2003 mới hồi phục dần. Tuy tăng trưởng trở lại nhưng tốc độ tăng GDP bình quân hằng năm vẫn dưới 2% - 3%. Rõ ràng, không chỉ trong lĩnh vực GD - ĐT mà hầu hết các lĩnh vực khác: chính trị, văn hóa, xã hội...đều đã và đang phải tiến hành cải cách; hay nói cách khác, cho đến nay Nhật Bản vẫn đang trên đường cải cách. Cuộc đại cải cách GD - ĐT lần thứ ba được Chính phủ Nhật Bản tiến hành từ năm 1986 và kéo dài cho đến nay.
Nội dung cơ bản của cải cách giáo dục - đào tạo
Thông qua cuộc đại cải cách GD - ĐT lần thứ ba, Nhật Bản sẽ tạo dựng một hệ thống giáo dục với chức năng đào tạo nguồn nhân lực cho hiện tại và tương lai theo hướng tạo ra những con người đầy sức sáng tạo để có thể đảm đương nhiệm vụ đưa đất nước nhanh chóng vượt qua những khó khăn, thách thức của tình trạng khủng hoảng, trì trệ hiện nay, đưa Nhật Bản vững bước ở thế kỷ XXI với vị thế là một trong những cường quốc hàng đầu thế giới.
Nội dung cải cách tập trung vào các mục tiêu lớn sau:
Một là, hướng tới hoàn thiện giáo dục nhân cách, đó là:
- Nâng cao khả năng kết hợp giáo dục giữa gia đình với địa phương, phát huy sức mạnh của địa phương và gia đình vào việc giáo dục nhân cách cho các học sinh.
- Tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách trong nhà trường. Đây là công việc đang được nhấn mạnh nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ việc giáo dục đạo đức trước đây.
- Thực hiện chế độ sinh hoạt dân chủ để tạo các mối quan hệ hòa đồng, thân thiện trong nhà trường, phát huy năng lực sáng tạo của cả thầy và trò.
- Đào tạo đội ngũ giáo viên có chất lượng cao và tận tâm, tận lực với nghề nghiệp để từ đó làm nền tảng cho GD - ĐT các thế hệ học sinh khá và giỏi, có đủ nhân cách đạo đức là những chủ nhân của nước Nhật trong tương lai.
Hai là, thực hiện chế độ trường học có khả năng phát huy cá tính và tạo cho học sinh những cơ hội lựa chọn đa dạng với những nội dung sau:
- Tiến hành hợp nhất giáo dục trung học cơ sở và trung học bậc cao thành trung học phổ thông.
Hệ thống giáo dục Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay vẫn theo mô hình kiểu Mỹ; bao gồm: 9 năm giáo dục bắt buộc, trong đó: 6 năm tiểu học và 3 năm trung học cơ sở; tiếp theo đó là 3 năm trung học bậc cao không bắt buộc; và 4 năm đại học. Đó chính là mô hình giáo dục 9 - 3 - 4, hoặc cụ thể hơn còn gọi là mô hình giáo dục 6 - 3 - 3 - 4. Sau khi hợp nhất giáo dục trung học cơ sở và trung học bậc cao thành trung học phổ thông, sẽ trở thành mô hình giáo dục 6 - 6 - 4. Xu hướng trong tương lai, giáo dục của Nhật Bản sẽ tiến tới cả 6 năm tiểu học và 6 năm trung học phổ thông là giáo dục bắt buộc nhằm phổ cập giáo dục phổ thông 12 năm cho toàn dân.
- Linh hoạt hóa việc tuyển chọn vào đại học và sau đại học. Để làm tốt việc này, ngay từ những năm cuối giáo dục phổ thông, Nhật Bản đã chú ý hướng học sinh vào các lớp chuyên, khối chuyên và thực hiện hướng nghiệp để các em tự do phát triển năng khiếu và sở thích.
- Đổi mới phương pháp giáo dục và nội dung giảng dạy bao hàm cả phương pháp dạy đối với thầy và học đối với trò nhằm nâng cao tính độc lập, sáng tạo của cả thầy và trò. Phương pháp cải cách chủ yếu là đề cao tư duy độc lập, sáng tạo, phát triển nhân cách thay thế cho hệ thống giáo dục truyền thống trước đây vốn “lấy thầy giáo là trung tâm”; gắn nhà trường với môi trường và cộng đồng, nâng cao tính tự chủ của nhà trường; kết hợp giá trị truyền thống dân tộc với nâng cao tính quốc tế của các môn học, các hoạt động giáo dục...
Ba là, xúc tiến việc chấn hưng nghiên cứu và cải cách giáo dục đại học theo hướng phù hợp hơn với vị thế cường quốc của Nhật Bản trong môi trường mới vừa cạnh tranh vừa hợp tác để cùng phát triển.
Hướng tới mục tiêu này, người Nhật đã và đang thực hiện nhiều nội dung như: hoạch định chính sách phát triển cho các trường đại học trong thế kỷ XXI theo hướng đa dạng, linh hoạt hóa các cơ hội và hình thức học tập, sáng tạo cơ hội cấp bằng mới nhưng bảo đảm đúng quy chuẩn chất lượng và tính pháp lý; xúc tiến việc hợp tác nghiên cứu khoa học và nghiên cứu ứng dụng giữa các trường đại học và các cơ sở sản xuất; hoàn thiện hệ thống các cơ sở đào tạo trên đại học (đại học viện); đổi mới về cơ cấu tổ chức; thực hiện việc giao lưu hợp tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi lưu học sinh với các nước trong khu vực và toàn cầu...
Kết quả và triển vọng
Cuộc đại cải cách GD - ĐT lần thứ ba diễn ra trong bối cảnh đất nước Nhật Bản gặp nhiều thách thức, nhất là trong suốt gần hai thập niên qua. Dù đến nay Nhật Bản vẫn còn được ghi nhận là cường quốc thứ hai, song theo nhiều nhà phân tích, vị thế đó cũng đã bị suy giảm.
Vì thế, Nhật Bản phải nỗ lực rất nhiều để tiến hành đồng thời các cuộc cải cách từng lĩnh vực, bộ phận trong tổng thể một cuộc đại cải cách chung của cả nước. Tuy đã đạt được những kết quả bước đầu, song cuộc cải cách đó vẫn đang còn phải tiếp diễn trong tiến trình thực hiện các mục tiêu cơ bản đã định ra.
Có thể ghi nhận ở một số kết quả lớn nhất sau đây:
- Tiếp tục duy trì được xã hội học tập suốt đời.
Trước nhiều khó khăn đối với một đất nước vốn rất nghèo tài nguyên, chỉ có trông cậy vào nguồn nhân lực trình độ cao, say mê lao động và sáng tạo. Cuộc cải cách giáo dục lần này đã đạt được kết quả rất quan trọng trong việc khơi dậy ý thức phấn đấu học tập và học tập suốt đời của thế hệ trẻ Nhật Bản đương đại. Thực tế là, người Nhật đã và đang thực hiện xã hội hóa công tác GD - ĐT ở mọi cấp học, ngành học, ở cả các trường công, bán công và trường tư thục. Đồng thời họ cũng cho mở cả những trường đại học từ xa dựa trên cơ sở phát thanh và truyền hình, tạo cơ hội cho tất cả những người từ 18 tuổi trở lên đều có thể tham gia... Đương nhiên, rút kinh nghiệm về những “lộn xộn” đã từng có từ việc chạy đua dạy thêm, học thêm, Bộ Giáo dục Nhật Bản ngay từ tháng 4-1990 đã soạn thảo một dự luật về vấn đề này, ngay sau đó dự luật này đã được Hạ Nghị viện Nhật Bản thông qua ngày 1-7-1990 với tên chính thức của Bộ Luật đó là: “Luật về duy trì hệ thống khuyến khích học tập suốt đời”.
- Thực hiện chú trọng cải cách giáo dục tiểu học và trung học cơ sở.
Xuất phát từ quan điểm coi đây là những lứa tuổi khởi đầu rất quan trọng của đời học sinh không chỉ về đào tạo kiến thức văn hóa cơ sở mà quan trọng hơn vẫn là giáo dục hình thành nhân cách ở lứa tuổi này. Bởi vì nếu lứa tuổi này được giáo dục, đào tạo và hoàn thiện tốt sẽ là cơ sở tốt cho các bước phát triển tiếp theo.
Cụ thể cho đến nay, các trường tiểu học và trung học cơ sở ở Nhật Bản đều đã thực hiện khá triệt để việc cải cách nội dung giáo dục theo hướng tăng cường sự phát triển năng khiếu, sở thích cá nhân học sinh trong việc tự do lựa chọn môn học và tạo các cơ hội bình đẳng về giới trong các hoạt động học đường. Bên cạnh hệ thống các trường chung có tính phổ biến, người Nhật cũng chú trọng xây dựng một hệ thống các trường đặc sắc (trường chuyên). ở các trường chung cũng đều hình thành các lớp đặc sắc (lớp chuyên). Điều lưu ý là, không chỉ ở các trường, lớp chung mà cả các trường, lớp chuyên đều đang có xu hướng rút gọn, giảm bớt các môn học không bắt buộc để tăng thêm số giờ học đối với các môn học chuyên hoặc tự do lựa chọn của học sinh. Tình trạng “nhồi nhét” kiến thức học thêm cũng đã và đang giảm dần...
- Mở rộng các cơ hội giáo dục bậc cao, thể hiện trước hết là việc tăng cường các cơ sở đào tạo, kể cả các trường công, bán công và trường tư. Nhờ vậy mà bước vào thế kỷ XXI, Nhật Bản đã có tới 622 trường đại học, 585 trường đại học ngắn hạn, trong khi đầu những năm 90 thế kỷ XX chỉ có 460 trường đại học và 536 trường đại học ngắn hạn. Cùng thời gian đó, số sinh viên đã tăng từ 1.734.080 lên 2.448.804. Đáng lưu ý là đào tạo sau đại học cũng tăng trưởng rất ngoạn mục. Số đại học viện đã tăng từ 279 lên 463 cơ sở, số nghiên cứu sinh cao học và tiến sĩ đã tăng từ 65.692 người lên 191.125 người...
Tuy còn nhiều vấn đề đặt ra trong việc cải cách giáo dục bậc cao, song nhìn chung cho đến nay, hầu hết các cơ sở giáo dục - đào tạo đại học và sau đại học của Nhật Bản đều đã thống nhất được định hướng hoạt động đào tạo và nghiên cứu theo 4 mục tiêu sau: 1 - Nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học; 2 - Tạo sự mềm dẻo và linh hoạt hơn trong hệ thống đào tạo và nghiên cứu khoa học để bảo đảm quyền tự chủ của các trường đại học; 3 - Cải tiến cơ cấu hành chính để làm rõ trách nhiệm ra quyết định và thực hiện quyết định; 4 - Cá thể hóa các trường đại học và không ngừng cải tiến hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học bằng cách thành lập một hệ thống đánh giá đa dạng.
Cuộc đại cải cách GD - ĐT lần này vẫn đang trên hành trình phát triển, chưa thể đạt tới những đỉnh cao có tính bước ngoặt và mang lại những hiệu quả lớn lao đối với sự phát triển chung của Nhật Bản như hai cuộc đại cải cách GD - ĐT trước. Điều này có những nguyên nhân nhất định. Bởi vì cho đến nay Nhật Bản vẫn còn phải vượt qua nhiều thách thức lớn của một cuộc đại cải cách trên tổng thể nhiều lĩnh vực khác nhau; trong đó thách thức lớn nhất là làm sao giữ vững ổn định chính trường, để từ đó có thể tiếp tục tập trung thực hiện tốt hơn nữa những cuộc cải cách còn đang dang dở, trong đó có cuộc đại cải cách giáo dục lần thứ ba./.
Phê duyệt danh mục Dự án do IFAD tài trợ  (14/10/2008)
Tạm ứng vốn cho học sinh, sinh viên học kỳ I năm học 2008-2009 vay trong tháng 10-2008  (14/10/2008)
Xây dựng đề án an ninh lương thực quốc gia đến 2020  (14/10/2008)
Vị thế mới của Việt Nam trong cộng đồng tài chính tiền tệ quốc tế  (14/10/2008)
60 năm ngày truyền thống ngành Kiểm tra Đảng  (14/10/2008)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên