Cuộc chạy đua giữa hai bờ Thái Bình Dương

Đông Hải
19:46, ngày 28-11-2012
TCCSĐT - Từ lâu, Trung Quốc mong muốn trở thành nền kinh tế giàu mạnh nhất thế giới, trong khi đó, Mỹ vẫn chiếm vị trí hàng đầu, chưa bao giờ chịu nhường ngôi cho ai. Những năm sắp tới, rất có thể sẽ diễn ra cuộc chạy đua quyết liệt giữa hai bờ Thái Bình Dương.

Quyết tâm đuổi kịp và vượt Mỹ

Xa xưa, các bản đồ thế giới thường đặt Đại Tây Dương ở trung tâm, phía bên trái là châu Mỹ, còn phía bên phải là châu Âu, châu Á và châu Phi. Vào khoảng giữa thế kỷ trước, lần đầu tiên tại Cộng hòa liên bang Đức xuất hiện tấm bản đồ thế giới được bố trí khác thường - lấy Thái Bình Dương làm trung tâm, bên trái là châu Âu, châu Á và châu Phi, còn bên phải là châu Mỹ, giống như phần lớn các bản đồ thế giới hiện nay. Vào thời kỳ đó, nhiều nhà phân tích tình hình địa - chính trị thế giới đã dự báo, trong vài ba thập kỷ tới, khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ trở thành trung tâm của thế giới, bởi tại đó sẽ “phát triển bùng nổ”, trở thành khu vực kinh tế phát triển mạnh mẽ và giàu có nhất. Ngày nay, điều dự đoán đó đang dần dần trở thành hiện thực. Cách đây hơn 100 năm, cựu Tổng thống Mỹ Th. Ru-dơ-ven (Th. Roosevelt, nhiệm kỳ 1901-1909) cho rằng: “Lịch sử tương lai của chúng ta (Mỹ) sẽ được quyết định bởi vị trí của chúng ta ở Thái Bình Dương đối mặt với Trung Quốc hơn là vị trí của chúng ta ở Đại Tây Dương trực diện với châu Âu”. Phải chăng, lời dự đoán này đã trùng hợp một cách ngẫu nhiên với ý đồ chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ hiện nay?

Ông Kê-vin Rút (Kevin Rudd), người từng giữ chức Thủ tướng Ô-xtrây-li-a từ năm 2007 đến năm 2010 và sau đó là Ngoại trưởng nước này từ năm 2010 đến năm 2012, hiện là chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc, cho rằng, ông Tập Cận Bình vừa được Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 bầu làm Tổng Bí thư và tháng 3-2013 sẽ tiếp nhận cả chức Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, có sứ mệnh lãnh đạo quốc gia đông dân nhất trong cuộc chạy đua quyết liệt để có thể đuổi kịp và vượt Mỹ.

Trung Quốc đang trỗi dậy, song vẫn bị ảnh hưởng bởi không ít thách thức. Điều dễ nhận thấy là, trái với sức mạnh kinh tế nổi trội, tiềm lực quân sự của Trung Quốc vẫn còn khiêm tốn trong tương quan so sánh với Mỹ. Nhiều nhà phân tích cho rằng, từ nay đến giữa thế kỷ 21, Mỹ vẫn là cường quốc số một thế giới. Đó cũng là lời cảnh báo mà tầm nhìn chiến lược toàn cầu của Trung Quốc phải thực sự tính đến.

Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 đề ra mục tiêu đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi so với năm 2010; đến năm 2049, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, “Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia giàu có, dân chủ, văn minh và là nước xã hội chủ nghĩa hài hòa, hiện đại”. Để thực hiện được mục tiêu này, cần phải cải cách thể chế kinh tế mà trọng tâm là xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trên nguyên tắc tôn trọng hơn nữa những quy luật của thị trường, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò điều tiết thị trường của nhà nước. Ban lãnh đạo Trung Quốc chủ trương kiên trì quan điểm hiện đại hóa đất nước, trong khi vẫn duy trì sự ổn định chiến lược ở Đông Á - điều mà các nhà cầm quyền Mỹ rất tâm đắc chia sẻ và mong muốn hợp tác với tân Tổng Bí thư Tập Cận Bình.

Trong khi đó, phần lớn các nhà phân tích của Trung Quốc tỏ ra hồ hởi đón tin ông Ba-rắc Ô-ba-ma tái đắc cử, liên nhiệm Tổng thống Mỹ, thậm chí còn hài lòng với chiến lược “Chuyển trọng tâm sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương” của Oa-sinh-tơn. Ông Kim Xán Vinh, Phó Giám đốc Học viện Quan hệ quốc tế thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc, chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề Trung - Mỹ, cho rằng, việc ông B. Ô-ba-ma tiếp tục làm chủ Nhà Trắng thêm bốn năm nữa là tín hiệu tốt đối với Trung Quốc, bởi có thể sẽ tránh được những ảnh hưởng tiêu cực đối với quan hệ Trung - Mỹ, bảo đảm sự ổn định cho mối quan hệ giữa hai nước - đó là “tiền đề quan trọng số một” mà cả hai bên đều rất cần. 

Tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Trung Quốc và Mỹ hiện nay là 600 tỷ USD. Rõ ràng, về kinh tế - thương mại, mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nước là rất lớn. Vì thế, bước vào nhiệm kỳ thứ hai, Tổng thống B. Ô-ba-ma càng coi trọng Trung Quốc hơn. Ngay từ khi tranh cử nhiệm kỳ đầu vào năm 2008, ông B. Ô-ba-ma đã cam kết, đến năm 2015 Mỹ sẽ tăng gấp đôi kim ngạch xuất khẩu. Để thực hiện mục tiêu này, Mỹ phải dựa nhiều vào thị trường Trung Quốc. 

Sự phụ thuộc về kinh tế của Trung Quốc vào Mỹ cũng chủ yếu là ở khía cạnh thị trường. Các doanh nghiệp Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, liên tục mua các doanh nghiệp nổi tiếng của phương Tây, trong đó có Mỹ. Do vậy, trong tương lai, “sản xuất tại Trung Quốc” (made in China) sẽ biến thành “sản xuất cho Trung Quốc” (made for China). Khi đó, tầm ảnh hưởng của Trung Quốc sẽ càng lớn. Có thể sau thời kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 12 (2011-2015), Trung Quốc sẽ trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới. Khi đó, Trung Quốc có thể ứng phó dễ dàng hơn với các cuộc khủng hoảng tài chính tái bùng phát tại Mỹ hay ở bất cứ nước nào, khu vực nào trên thế giới. 

Đối tác hay đối kháng?

Về phía Mỹ, có thể thấy, sau khi giành thắng lợi trong nhiệm kỳ hai, ông B. Ô-ba-ma bắt tay ngay vào việc thực hiện những cam kết trên các lĩnh vực đối nội, như: tiến hành các biện pháp nhằm giảm thâm hụt ngân sách; tăng thuế đối với các tầng lớp giàu có nhất, đồng thời giảm thuế thu nhập cho các tầng lớp trung lưu và người thu nhập thấp; cải cách Bộ luật Thuế doanh nghiệp nhằm giảm thuế cho những công ty đưa việc làm từ nước ngoài về Mỹ; khuyến khích tăng sản lượng hàng hóa "made in America"; thúc đẩy đà phục hồi kinh tế; tạo thêm hàng triệu việc làm mới; tăng gấp đôi xuất khẩu nhằm hỗ trợ việc làm; giảm một nửa lượng nhập khẩu năng lượng vào năm 2020 bằng cách phát triển năng lượng xanh; tăng đầu tư vào các chương trình giáo dục và đào tạo với mục tiêu thế hệ trẻ nước Mỹ phải được tiếp cận sự giáo dục tốt nhất thế giới, đứng đầu thế giới về tỷ lệ tốt nghiệp đại học vào năm 2020; tiếp tục có chính sách thu hút lực lượng lao động có tay nghề và nhân tài từ các nước; cam kết đẩy nhanh các dự án hạ tầng cơ sở, đường sá, cầu cống, đường ray, hệ thống giao thông công cộng, sân bay, hải cảng để giúp thúc đẩy kinh tế phát triển; khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhỏ; tiếp tục coi kinh tế nông nghiệp là quan trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực, xuất khẩu và tạo việc làm;…

Về đối ngoại, chủ trương phát huy những thành quả đối ngoại của ông B. Ô-ba-ma đã ghi điểm tốt với cử tri Mỹ, mà trước hết, đó là việc hoàn tất rút quân khỏi I-rắc, công bố rõ lịch trình chấm dứt cuộc chiến hao người, tốn của tại Áp-ga-ni-xtan vào năm 2014, tiêu diệt được trùm khủng bố quốc tế Ô-xa-ma Bin La-đen và một số thủ lĩnh của mạng khủng bố An Kê-đa,… Đó còn là việc ông quyết định thực hiện chiến lược tổng lực giảm bớt lực lượng ở khu vực Đại Tây Dương và Trung Đông, chuyển trọng tâm sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước châu Á, trước hết là các nước Đông Nam Á và Đông Á, coi đây là khu vực gắn liền với tương lai và sự thịnh vượng của nước Mỹ trong thế kỷ 21, và chỉ như vậy mới có hy vọng thực hiện giảm ngân sách quốc phòng hàng trăm tỷ USD mỗi năm trong thời gian tới.

Đó cũng là điều lý giải vì sao, trong khi còn chưa làm lễ trọng thể nhậm chức nhiệm kỳ hai (dự định vào ngày 20-01-2013), ông Ô-ba-ma đã có chuyến công du nước ngoài đầu tiên (trong khuôn khổ nhiệm kỳ hai) tới Đông Nam Á, trong đó có Thái Lan - một đồng minh kỳ cựu và thân thiết nhất của Mỹ ở khu vực này, và Mi-an-ma - một quốc gia giàu tiềm năng, song trong nhiều thập niên qua, Mỹ cho rằng họ bị trói buộc bởi chế độ độc tài quân phiệt, nay mới được “cởi trói”. Nhưng mục tiêu chủ yếu trong chuyến thăm này của ông B. Ô-ba-ma, như nhiều nhà phân tích quốc tế nhận định, chính là muốn tăng cường sự hiện diện của Mỹ tại eo biển Ma-lắc-ca, con đường thuận lợi duy nhất từ Ấn Độ Dương vào Trung Quốc, nơi đang là huyết mạch vô cùng quan trọng trong việc cung cấp dầu khí từ các nước Trung Đông cho Trung Quốc.

Thăm Cam-pu-chia và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) tại Phnôm-pênh (ngày 20-11), Tổng thống B. Ô-ba-ma bày tỏ lo ngại tình hình ở Biển Đông ngày một xấu đi và kêu gọi các nhà lãnh đạo của một số nước châu Á nên kiềm chế, giảm bớt các căng thẳng do tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông, Biển Hoa Đông và các vùng biển khác. Phó Cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ, ông Ben Rô-đét (Ben Rhodes), giải thích thêm rằng, thông điệp của Tổng thống B. Ô-ba-ma là cần phải giảm các căng thẳng. “Không có lý do gì để căng thẳng leo thang, nhất là vì có hai cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới là Trung Quốc và Nhật Bản liên quan đến những tranh chấp chủ quyền đó”. Ông B. Ô-ba-ma bày tỏ ủng hộ một giải pháp đa phương cho vấn đề Biển Đông, mong muốn Trung Quốc cùng với các nước ASEAN nhanh chóng đạt được thỏa thuận và hoàn tất bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (DOC), trong khi Trung Quốc lại mong muốn giải quyết vấn đề này trên cơ sở song phương.

Tất nhiên, những năm gần đây Trung Quốc cũng có những phương án xây dựng thể chế để gắn kết đồng minh tại châu Á, trong đó, đáng chú ý là Tổ chức Hợp tác Thượng Hải hay cơ chế “cộng ba” đối với khối ASEAN. Trong quan hệ với các nước Trung Á, Trung Quốc luôn tích cực tìm kiếm những cơ hội nảy sinh sau khi Liên Xô tan rã. Với các nước Nam Á, ngoài Pa-ki-xtan là đồng minh chiến lược lâu năm, gần đây Trung Quốc cũng đã thiết lập mối quan hệ thân thiện với các nước khác, đặc biệt là với Xri-lan-ca và Áp-ga-ni-xtan. Trong khuôn khổ chính sách “biên giới mềm”, việc tạo ra mô hình “đối tác chiến lược” với các nước láng giềng không chỉ giúp Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng mà còn hạn chế những rủi ro đe dọa trong tương lai.

Bàn về chính sách “biên giới mềm” của Trung Quốc, Giáo sư Thời Ân Hoằng, chuyên gia nghiên cứu về Mỹ, thuộc Đại học Nhân Dân Trung Quốc, cho rằng, Bắc Kinh nên lợi dụng xu thế Trung Quốc đang lên để thiết lập một vị thế “siêu hạng” hoặc “gần siêu hạng” về chính trị, quân sự, ngoại giao, cùng với tạo ảnh hưởng kinh tế đối với vùng ngoại vi của Trung Quốc, đặc biệt là đối với Đông Á. Chiến lược gia Môn Hồng Hoa, thuộc Trường Đảng Trung ương Trung Quốc, cũng nói rằng, sự thống trị khu vực của Trung Quốc không chỉ là yếu tố quan trọng, sống còn mà còn là mục tiêu tối thượng cho tương lai. Ông nhấn mạnh, hướng đi của Trung Quốc là phải đạt được ảnh hưởng toàn cầu, bằng cách trở thành sức mạnh thống trị tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Từ bàn đạp châu Á, sự thống trị của Trung Quốc mới có thể phóng ra thế giới.

Tờ “Đại Công báo” (Hồng Kông), số ra ngày 14-11 vừa qua dự báo rằng, trong vài năm tới, nước Mỹ và cả thế giới sẽ bước vào thời kỳ thay đổi mang tính lịch sử. Cho dù sự thay đổi đó có thể chưa tạo ra những biến động lớn, song quan hệ chiến lược cùng các mối quan hệ khác giữa Trung Quốc và Mỹ không tránh khỏi bị ảnh hưởng. 

Nhìn lại quan hệ thương mại Trung - Mỹ trong bốn năm qua, có thể thấy hai xu thế chủ yếu nổi lên: khối lượng và phạm vi buôn bán giữa hai nước không ngừng phát triển; và sự bảo hộ của Mỹ ngày càng tăng mạnh, khiến các cuộc tranh chấp và cọ sát giữa hai nước cũng ngày càng gia tăng. Trong những năm tới, hai xu thế này, về bản chất, vẫn sẽ được duy trì như bốn năm qua, và, tuy không còn  mới, song các nội dung cụ thể của nó chắc chắn sẽ phát sinh thêm nhiều hạng mục mới. Chẳng hạn, trong quan hệ trao đổi, tính hai chiều sẽ tăng lên: có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Mỹ, đồng thời, cũng có nhiều người Mỹ đến học tập và ở lại làm việc tại Trung Quốc. Trong quá trình áp dụng chủ nghĩa bảo hộ, Mỹ sẽ mạnh tay thực hiện các biện pháp “phản công kép”, nghĩa là vừa sửa đổi các luật của nước mình sao cho “hợp pháp hóa”, nhằm tăng cường các lý do về an ninh quốc gia để ngăn chặn và gây khó khăn cho các nhà đầu tư Trung Quốc, vừa can thiệp vào chính sách xuất khẩu của Trung Quốc. Mỹ cũng đang lên kế hoạch nghiên cứu các biện pháp “phòng thủ kiên cố” mới nhằm vào các doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc. 

Thực tế cho thấy, kinh tế Mỹ đang sa sút, bởi vậy Oa-sinh-tơn buộc phải gia tăng chủ nghĩa bảo hộ để bảo vệ nền kinh tế của mình và chống trả sức ép cạnh tranh của Trung Quốc. Đảng Dân chủ của Tổng thống B. Ô-ba-ma và Công đoàn Mỹ có quan hệ mật thiết với nhau, bởi vậy, Chính phủ sẽ rất dễ bị gây sức ép từ phía Công đoàn trong vấn đề gia tăng bảo hộ mậu dịch. Trình độ phát triển và sức sản xuất của Trung Quốc tiếp tục được nâng lên, do vậy, phạm vi cạnh tranh trực tiếp trong sản xuất giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng mở rộng. Các biện pháp bảo hộ mậu dịch của Mỹ đối với Trung Quốc trong vài năm gần đây đã không còn nhằm vào những sản phẩm gia công tốn nhiều lao động, mà chính là nhằm vào các sản phẩm giàu trí tuệ, có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao và tập trung nhiều vốn. Trình tự kinh tế - tài chính mới của thế giới đang từng bước thay thế trình tự cũ, do đó, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Mỹ chắc chắn sẽ ngày càng gay gắt và làm cho cuộc cạnh tranh giữa hai nước có thêm các nhân tố địa - kinh tế và địa - chính trị. Hơn thế, sự ảnh hưởng của nó sẽ từng bước gia tăng, dẫn đến một loạt cuộc đọ sức quốc tế trong các cuộc đàm phán về những vấn đề như thương mại quốc tế, cải cách Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), sự biến đổi khí hậu của trái đất, hợp tác khu vực,… Đương nhiên, tại các diễn đàn đó cũng sẽ xảy ra cuộc tranh chấp quyết liệt giữa hai nền kinh tế đầu tàu ở hai bên bờ Thái Bình Dương.

Mâu thuẫn chủ yếu và căn bản nhất giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ xuất hiện trên phương diện địa - chính trị. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng tới quan hệ thương mại song phương, mà còn làm gia tăng tính không ổn định và tính không rõ ràng trong các quan hệ khác giữa hai nước. Bốn năm vừa qua là thời kỳ các hành động đối kháng địa - chính trị giữa Trung Quốc và Mỹ được nâng cấp và có sự thay đổi về chất, hay nói cách khác, hai nước đã bước vào thời kỳ giống như một cuộc “chiến tranh lạnh mới”. Bằng chứng cụ thể đã khá rõ ràng:  Một là, vào năm 2010, lần đầu tiên Mỹ khôi phục việc bán vũ khí cho Đài Loan, sau nhiều năm tạm dừng. Hai là, gần đây, Mỹ thực thi chiến lược tổng lực “Chuyển trọng tâm sang châu Á - Thái Bình Dương”, bao gồm cả việc chuyển trọng tâm bố trí quân lực; tạo ra tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên; trực tiếp hoặc gián tiếp can dự vào các cuộc tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước xung quanh; hợp tác chặt chẽ về quốc phòng với một số nước, như Nhật Bản, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Phi-líp-pin; trực tiếp can thiệp vào chính sách đối ngoại của một số nước khác đối với Trung Quốc;… Trong những năm tới, sự đối kháng Trung - Mỹ trong cuộc “chiến tranh lạnh mới” có thể sẽ tiếp tục tăng nhiệt, không loại trừ việc hai nước tiến tới chạy đua vũ trang.

Khởi động lại quan hệ Trung - Mỹ

Trong những thập niên gần đây, tại Trung Quốc, cứ khoảng 10 năm lại có sự thay đổi thế hệ lãnh đạo. Vừa qua, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 đã bầu ra Ban lãnh đạo mới của nước này. Thông thường, mỗi lần có sự thay đổi thế hệ lãnh đạo tại quốc gia đông dân nhất trên bờ Đông Thái Bình Dương thì tại bờ Tây Thái Bình Dương, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cũng có sự thay đổi chủ nhân Nhà Trắng. Rất may là, lần này ông B. Ô-ba-ma đắc cử liên nhiệm Tổng thống Mỹ, bởi vậy, sự “khởi động lại” quan hệ giữa hai nước đầu tàu kinh tế của hai bên bờ Thái Bình Dương có thể sẽ nhẹ nhàng và thuận lợi hơn.

Vào trung tuần tháng 2 năm nay, ông Tập Cận Bình, với tư cách là Phó Chủ tịch Trung Quốc, đã có chuyến thăm lần đầu tiên tới Mỹ. Tại đây, ông có điều kiện làm quen và củng cố các mối quan hệ cá nhân với các nhà lãnh đạo cấp cao của Mỹ. Cũng qua chuyến thăm đó, ông kín đáo tỏ thái độ ủng hộ ông B. Ô-ba-ma trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng nhiệm kỳ hai, bởi dù sao, “bắt tay làm ăn” với vị Tổng thống da màu này sẽ “thoải mái”, “dễ hiểu nhau hơn”.

Trong nhiệm kỳ hai, Tổng thống B. Ô-ba-ma chủ trương quan tâm nhiều hơn đến các mối quan hệ kinh tế với châu Á. Theo đó, Mỹ sẽ nỗ lực hơn trong việc thúc đẩy Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định khu vực gồm nhiều nền kinh tế nhưng không có Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích cho rằng, trên lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc chính là mối quan tâm hàng đầu và lâu dài đối với Mỹ, cho dù mối quan tâm trước mắt của Oa-sinh-tơn là chương trình hạt nhân của I-ran. Nhà Trắng lo ngại, nếu xảy ra cuộc xung đột với quốc gia Hồi giáo này sẽ hút hết nguồn lực và có thể làm đảo lộn những mục tiêu mà họ muốn đạt được ở những nơi khác.

Cách đây hai năm, Ngoại trưởng Mỹ Hi-la-ri Clin-tơn tuyên bố rằng, “Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc bảo đảm hòa bình và tự do hàng hải trên Biển Đông”. Từ đó đến nay, Oa-sinh-tơn thường xuyên lên tiếng ủng hộ nỗ lực thương lượng tập thể của các nước ASEAN với Trung Quốc về những tranh chấp lãnh hải, nhưng Trung Quốc vẫn còn lưỡng lự. Việc hòa giải những căng thẳng ngoại giao đó có ý nghĩa quan trọng trong nhiệm kỳ hai của ông B. Ô-ba-ma. Các nhà lãnh đạo cấp cao của Mỹ và Trung Quốc có thể không muốn “cao giọng” về điều này, song họ nhận thấy rằng, nó khiến cho quan hệ giữa hai nước đang gặp những khó khăn, rắc rối và tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

Tình trạng mất niềm tin chiến lược giữa hai nước đã liên tục gia tăng trong hai năm qua và đang tạo ra vòng luẩn quẩn, mà nếu không nhanh chóng chấm dứt thì một cuộc cạnh tranh khốc liệt, gây thiệt hại cho cả hai nước sẽ sớm trở thành sự thật. Cả Mỹ và Trung Quốc đều đổ lỗi cho nhau về những căng thẳng ngày càng gia tăng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chính quyền ông B. Ô-ba-ma cho rằng, cần có biện pháp đối phó trước sự quyết đoán của Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ và việc hiện đại hóa quân đội nước này. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày càng phản đối sự ủng hộ ngoại giao mà Mỹ dành cho các nước láng giềng của Trung quốc trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ của các nước này với Trung Quốc. Tuy nhiên, điều mà Trung Quốc lo ngại nhất là kế hoạch tăng cường các căn cứ hải quân của Mỹ ở Thái Bình Dương.     

Trước tình hình đó, ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu đối với cả Mỹ và Trung Quốc là thiết lập lại phương hướng chung của mối quan hệ giữa hai nước. Hiện nay, quan hệ Trung - Nhật đang rất căng thẳng, bởi thế, sắp tới hai nước này chắc sẽ phải dành nỗ lực đáng kể để làm dịu bớt. Ở đây, Ban lãnh đạo mới của Trung Quốc có thể cần phải nhận thức được hai thực tế đan xen, đó là quan hệ Mỹ - Trung có vị trí quan trọng hơn nhiều trong các lợi ích dài hạn của Trung Quốc, và việc chỉnh sửa mối quan hệ với Tô-ki-ô tuy chỉ là bước đi đầu tiên nhưng rất quan trọng trong phương hướng chung đó.     

Có thể khẳng định, trong thời gian tới, cả Mỹ và Trung Quốc đều muốn duy trì các quan hệ song phương ổn định. Trung Quốc đang trải qua quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, còn Tổng thống liên nhiệm B. Ô-ba-ma bắt đầu nhiệm kỳ hai với rất nhiều thách thức ở trong nước cũng như trên trường quốc tế. Cả hai phía đều muốn “bắt tay”, “cài đặt lại quan hệ”, để có thể bảo đảm thực hiện những mục tiêu trước mắt và lâu dài. Mọi người hy vọng, hai cường quốc trên hai bờ Thái Bình Dương dù có thể ganh đua, cạnh tranh nhau quyết liệt, nhưng vẫn phải tăng cường hợp tác cùng phát triển, góp phần tích cực vào việc khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, giữ gìn ổn định tình hình chính trị thế giới và các khu vực, để các nước khác cũng có điều kiện và cơ hội phát triển./.