Phát triển một số lĩnh vực lý luận gắn liền với thực tiễn đổi mới đất nước trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng

TS. Lê Thị Thanh Hà Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
21:23, ngày 06-12-2016

TCCSĐT - Lịch sử hình thành, phát triển lý luận của Đảng ta luôn gắn liền với thực tiễn đất nước. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới vừa qua, Đảng ta luôn quán triệt nguyên tắc thống nhất lý luận - thực tiễn và thực tiễn - lý luận. Do đó, lý luận về đường lối đổi mới và phát triển đất nước đã kịp thời được bổ sung trên nhiều lĩnh vực.

Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đổi mới đất nước đang đặt ra, Đại hội XII của Đảng đã tiếp tục phát triển lý luận trên một số lĩnh vực. Điều đó được thể hiện như sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Có thể thấy, quan điểm của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được phát triển và ngày càng hoàn thiện. Tại Đại hội IX, Đảng ta khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xem đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chỉ ra những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Tại Đại hội XI, Đảng ta đưa chủ trương, đường lối này vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

Tại Đại hội XII, Đảng ta yêu cầu phải tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua, việc xây dựng nền kinh tế thị trường đã thu được một số thành tựu, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó, hạn chế lớn nhất là “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển”(1). Vì vậy, Đảng ta xác định, trong những năm tiếp theo, phải “Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, cụ thể là đến năm 2020 “phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”(2). Để đạt được mục tiêu đó, Đảng ta xác định ngày càng rõ những vấn đề cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là:

Vai trò của kinh tế thị trường: Thể hiện ở việc vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ nguồn lực phát triển; thị trường là động lực để giải phóng sức sản xuất; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đều phù hợp với cơ chế thị trường.

Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường: Thể hiện ở 5 điểm: có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp để thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất; và nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.

Vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở các điểm: Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường; nguồn lực nhà nước được Nhà nước phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường; Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch; Nhà nước sử dụng các nguồn lực nhà nước và công cụ, cơ chế, chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế thị trường.

Vấn đề kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo: Kinh tế nhà nước gồm nguồn lực nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.

Bên cạnh hạn chế về thể chế kinh tế thị trường chậm được hoàn thiện, trong những năm qua, việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đồng bộ, cụ thể là “Trình độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ, thông suốt, trong đó, thị trường lao động và thị trường dịch vụ công cơ cấu chưa hợp lý; thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường khoa học - công nghệ phát triển chậm”(3). Vì vậy, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hóa thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng hiện đại.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Đường lối công nghiệp hóa được Đảng ta đề ra từ rất sớm (từ Đại hội III, năm 1960). Đến Đại hội VIII (tháng 6-1996), Đảng ta xác định: Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đại hội IX của Đảng đã đề ra Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đến Đại hội XI, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, một lần nữa Đảng ta xác định mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Sau 20 năm (tính từ Đại hội VIII của Đảng) thực hiện công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế khá cao nhưng còn thấp so với tốc độ tăng trưởng kinh tế mà các nền kinh tế ở Đông Á đạt được trong thời gian thực hiện công nghiệp hóa. Khoảng cách chênh lệch thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam so với mức chuẩn của một số nước công nghiệp còn lớn. Xét về mức độ công nghiệp hóa, nước ta đang tụt hậu khá xa so với một số nước trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan, Ma-lai-xi-a. Đặc biệt, trong 10 năm gần đây, nguy cơ tụt hậu về kinh tế của đất nước không giảm bớt mà còn có mặt trầm trọng hơn, chẳng hạn như tỷ lệ nghèo đa chiều tăng cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng; chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, hiệu quả chưa cao... Bởi vậy, đến năm 2020 nước ta chưa thể cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Do đó, tại Đại hội XII, Đảng ta xác định nhiệm vụ trong những năm tới là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng ta xác định nhiệm vụ cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm tới là: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức”(4); đồng thời, phải được tiến hành qua 3 bước: “tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(5).

Thứ ba, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn

Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản để đạt được mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ và mục tiêu từ nay đến giữa thế kỷ XXI ở nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra, chúng ta phải “nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Nhờ nhận thức kịp thời và giải quyết đúng đắn 8 mối quan hệ lớn này, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần vào việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội cả về lý luận và thực tiễn.

Tuy nhiên, trong những năm qua, việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường vẫn còn nhiều mâu thuẫn, bất cập. Kinh tế thị trường được vận động với sự tham gia của 3 chủ thể chính: người sản xuất (người cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho thị trường), hộ gia đình (người tiêu dùng) và Nhà nước. Nhưng trong quản lý nền kinh tế của Việt Nam hiện nay, có sự lẫn lộn về vị trí, vai trò của 3 chủ thể này. Có nhiều việc Nhà nước cần phải làm, nhưng lại không làm, hoặc làm không đầy đủ. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, Nhà nước can thiệp vào vai trò, chức năng của các chủ thể khác, điển hình như, trong lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô, vai trò quan trọng nhất của Nhà nước là định hướng mục tiêu phát triển, dự báo tình hình biến động của thị trường; kiểm soát độc quyền; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh…, nhưng Nhà nước chưa tập trung thực hiện đúng mức. Việc chậm thay đổi thói quen can thiệp của Nhà nước vào thị trường bằng các biện pháp hành chính, thay vì sử dụng các công cụ can thiệp gián tiếp để điều tiết thị trường cũng là một nguyên nhân khiến Nhà nước vận hành thị trường thiếu hiệu quả.

Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước là tạo ra các yếu tố dẫn dắt thị trường phát triển, thế nhưng ở nước ta, dường như một số chính sách và quan niệm lại đi lệch theo hướng cường điệu hóa vai trò của thị trường trong phát triển, mà chưa thấy hết vai trò của Nhà nước. Vì vậy, Đại hội XII đã bổ sung thêm một mối quan hệ lớn cần phải tiếp tục giải quyết trong những năm tới là mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, nâng các mối quan hệ lớn cần phải giải quyết lên 9 mối quan hệ. Đó là: “quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”(6). Nhận thức sâu sắc các mối quan hệ đó sẽ làm cho hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể và nhân dân mang tính tự giác, chủ động, nâng cao ý thức và trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ, khắc phục tính biệt lập, chia cắt, chỉ thấy lợi ích riêng, trước mắt của ngành mình, địa phương mình mà xem nhẹ lợi ích chung, sự nghiệp chung.

Thứ tư, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn đang tấn công vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đồng thời phủ định con đuờng cách mạng Việt nam. Ngoài ra, nước ta đang phải đối phó với những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, vùng trời, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia,... Do vậy, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã mở rộng nội dung bảo vệ Tổ quốc, khắc phục sự phiến diện trong tư duy là chỉ nhấn mạnh đến bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; làm rõ hơn mối quan hệ thống nhất, biện chứng giữa các nội dung trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, Đảng ta nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”(7). Nếu như trước đây, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định là kiên định về mục tiêu chủ nghĩa xã hội, trên nguyên tắc linh hoạt, mềm dẻo trong giải quyết nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn, thì hiện nay, Đảng ta bổ sung thêm: phải kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Về phương thức bảo vệ Tổ quốc, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006) của Đảng nêu rõ: “Kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ”(8). Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn mới, Đại hội XII đã bổ sung phương thức bảo vệ Tổ quốc là: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”(9).

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng tại Đại hội XII là sự đổi mới tư duy đúng đắn, sáng tạo về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trên cơ sở kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc, được nâng lên một tầm cao mới, phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ. Đảng và Chính phủ đã triển khai nhiều nội dung, biện pháp khả thi để thực hiện phương thức bảo vệ Tổ quốc từ xa; bao gồm các hoạt động của Chính phủ, phi chính phủ; hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đối ngoại nhân dân; kết hợp hoạt động trên nhiều lĩnh vực, như kinh tế, thương mại, văn hóa,… Lực lượng tham gia bảo vệ Tổ quốc từ xa được kết hợp chặt chẽ cả ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, tạo nên một thế trận liên hoàn, nhiều tầng nấc, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta.

Thứ năm, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu

Đại hội XI của Đảng lần đầu tiên đặt vấn đề “bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu” thành một định hướng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hội nghị Trung ương 7 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3-6-2013, “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”. Năm 2011, Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, được cụ thể hóa thành chương trình và các nhiệm vụ, cơ chế, chính sách, giải pháp về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc khai thác, quản lý và sử dụng tài nguyên còn nhiều yếu kém. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới môi trường ở nước ta bị ô nghiễm, suy thoái nghiêm trọng. Một số loại tài nguyên đang bị khai thác quá mức, dẫn tới hoang hóa, sa mạc hóa, cạn kiệt. Đặc biệt, biến đổi khí hậu ngày càng thể hiện rõ nét, trong khi năng lực dự báo và việc ứng phó còn bị động, lúng túng. Ngành nông nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản ở nước ta chiếm tới hơn 70% dân số. Cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào môi trường tự nhiên và khai thác các nguồn tài nguyên. Nhưng biến đổi khí hậu đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của họ thông qua các hiện tượng khí hậu cực đoan, như nước biển dâng cao và xâm nhập mặn làm mất đi nhiều diện tích trồng cây lương thực; nhiệt độ tăng cao làm cơ cấu cây trồng bị đảo lộn, vì cây trồng không kịp thích nghi với điều kiện khí hậu mới, dẫn đến tăng chi phí sản xuất; biến đổi khí hậu cộng với ô nhiễm môi trường làm hàm lượng ô-xy trong nước giảm mạnh vào ban đêm, khiến nhiều loài tôm, cá bị chết hoặc chậm lớn. Hệ quả của sự thay đổi hệ sinh thái biển đã, đang và còn tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản. Theo nghiên cứu của nhóm DARA International, Việt Nam hiện đứng đầu trong danh sách các nước có mức thiệt hại của nông nghiệp và thủy sản do biến đổi khí hậu ở mức nguy cấp, tức là ở mức báo động đỏ. Trong đó, riêng ngành thủy sản tổn thất khoảng 1,5 tỷ USD năm 2010 và mức thiệt hại này sẽ tăng lên tới 25 tỷ USD vào năm 2030.

Trước tình hình đó, Đại hội XII của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ rất cụ thể là: “Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trýờng, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững”(11). Như vậy, lần đầu tiên trong văn kiện Đảng đã thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Làm tốt công tác quản lý tài nguyên sẽ bảo vệ được môi trường, nhất là môi trường tự nhiên, làm cho môi trường không bị ô nghiễm, suy thoái, đồng thời bảo vệ được nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. Chủ động thích nghi và ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ làm giảm thiệt hại do tự nhiên gây nên, tạo điều kiện để phát triển bền vững./.

------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 60

(2) Văn kiện Đại hội, tlđd, tr. 104
(3) Văn kiện Đại hội, tlđd, tr. 100
(4), (5) Văn kiện Đại hội, tlđd, tr. 90
(6) Văn kiện Đại hội, tlđd, tr. 17-18
(7) Văn kiện Đại hội, tlđd, tr. 148
(8) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 100
(9)
Văn kiện Đại hội, tlđd, tr. 149
(10) Nguồn: Thủy sản Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất do biến đổi khí hậu, www.tinmoi.vn, ngày 11-1-2013
(11) Văn kiện Đại hội, tlđd, tr. 141