Các cây bút lý luận phê bình nữ thời kỳ đổi mới

PGS,TS. Nguyễn Bích Thu Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
20:55, ngày 20-09-2017

TCCSĐT - Trong đời sống văn học Việt Nam từ năm 1986 đến nay, bên cạnh lực lượng hùng hậu của các nhà sáng tác là sự hiện diện ngày càng đông đảo của các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình. Dẫu còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều về lý luận phê bình, song cùng với các loại hình văn học khác, lĩnh vực nghiên cứu lý luận phê bình vẫn có những đóng góp nhất định, trong đó có sự góp mặt của các cây bút nữ.

Trong số 18 hội viên nữ Hội Nhà văn Việt Nam thuộc Hội đồng lý luận phê bình thì có đến 13 người xuất hiện vào những thập niên cuối của thế kỷ XX. So với các hội viên nữ ở Hội đồng thơ hay văn xuôi thì các cây bút nữ lý luận phê bình chiếm tỷ lệ thấp, chỉ với con số khiêm nhường kể trên. Nhưng nếu tính quá trình phát triển của đội ngũ lý luận phê bình từ trước năm 1975 đến nay, thì sự hiện diện của 13 cây bút lý luận phê bình nữ, một mặt cho thấy sự phát triển của chuyên ngành lý luận phê bình, mặt khác là sự khó khăn của chuyên ngành không chỉ đối với các cây bút nữ mà cả giới nghiên cứu, lý luận phê bình nói chung. Nhìn lại ngày nào, trong đời sống phê bình, các nhà nghiên cứu, phê bình nữ là hội viên Hội Nhà văn có thể đếm được trên đầu ngón tay: Thiếu Mai, Ngọc Trai, Đặng Anh Đào, Vân Thanh, Lê Thị Đức Hạnh, thì nay, một thế hệ kế cận đã tiếp nối, với Mai Hương, Tôn Phương Lan, Bích Thu, Lý Hoài Thu, Lưu Khánh Thơ, Nguyễn Thị Minh Thái, Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hồng, Trần Huyền Sâm, Trần Thị Trâm, Chu Thị Thơm, Lê Thị Bích Hồng, Hỏa Diệu Thúy. Đấy là chưa kể đến những cây bút chuyên tâm, chung thủy với công việc nghiên cứu lý luận phê bình và giảng dạy như Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị Bình, Tôn Thảo Miên, Lê Dục Tú. Nếu như trước đây các cây bút phê bình nữ là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam tập trung ở Hà Nội thì nay đã tỏa nhánh đến các vùng, miền: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Thái Nguyên, Thanh Hóa, tuy chưa “phủ sóng” đến cả nước nhưng sự hiện diện của các chị trên các địa bàn, các môi trường học thuật đã phần nào cho thấy sự cần thiết của lĩnh vực nghiên cứu, lý luận, phê bình trong đời sống văn học đương đại.

Những cây bút lý luận, phê bình nữ được đào tạo bài bản, có học hàm, học vị và điều quan trọng là đều có ý thức tự vượt lên chính mình, trở thành những nhà nghiên cứu, lý luận phê bình chuyên sâu, bám sát lý luận và thực tiễn văn học trong nước và thế giới đang ngày càng diễn ra sôi động, đa dạng, phức tạp. Các cây bút phê bình nữ đương đại đều may mắn được sống và làm việc trong những môi trường, không gian văn hóa mang tính học thuật, những mối quan hệ thân thiện giữa giới sáng tác và giới nghiên cứu phê bình, luôn đồng cảm và sẻ chia, lắng nghe và thấu hiểu trong quá trình sáng tạo, tiếp nhận của đôi bên nên dường như đã tránh được những bất đồng, những vách ngăn giữa hai giới đã từng tồn tại trước năm 1975. Với chị em làm công tác nghiên cứu hay giảng dạy, nhất là với những người nghiên cứu, việc viết là việc duy nhất phải làm. Song, khác với sáng tác của các thể loại thơ hay văn xuôi, loại hình lý luận phê bình nghiên cứu đòi hỏi thời gian, sau sự đọc là nghiền ngẫm, tích lũy rồi mới tạo được cảm hứng, say mê, sáng tạo. Vì vậy, các công trình, các cuốn sách tiểu luận phê bình phải đợi đến hàng chục năm mới ra mắt người đọc, mới trình diện làng văn. Đó là cái khó, cái nhọc nhằn, để “chầm chậm tới mình” của người nghiên cứu, phê bình.

Vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước đến những năm đầu thế kỷ XXI, hàng loạt các tập tiểu luận phê bình của các nhà nghiên cứu phê bình nữ lần lượt ra đời: Đối thoại mới với văn chương (năm 1996), Con mắt xanh (năm 2005), Đánh đường tìm hoa (năm 2010), Mặt người mặt hoa (năm 2012) của Nguyễn Thị Minh Thái; Theo dòng văn học (năm 1998), Văn học Việt Nam hiện đại - sáng tạo và tiếp nhận (năm 2015) của Bích Thu; Văn học - một cách nhìn (năm 1999) của Mai Hương; Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (các năm 1998, 2002); Văn chương và cảm nhận (năm 2005) của Tôn Phương Lan; Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại (năm 2005) của Lưu Khánh Thơ; Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 (năm 2007), Đồng cảm và sáng tạo (năm 2006), Văn nhân quân đội (năm 2015) của Lý Hoài Thu; Tiếng nói thi ca (năm 2002), Lý luận văn học: tự sự học (năm 2009), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại (năm 2016), Tiểu thuyết phương Tây hiện đại và các hướng tiếp cận (năm 2016) của Trần Huyền Sâm; Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại (giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945) (các năm 2002, 2010, 2015) của Trần Thị Việt Trung; Từ cõi ảo (năm 2004), Văn học và thời luận (năm 2007) của Chu Thị Thơm; Hoàng Ngọc Phách, người đổi mới tiểu thuyết (năm 2003), Từ nguồn cội văn chương (năm 2006), Văn học dân gian trong xã hội hiện đại (năm 2012), Ẩn sau từng con chữ (năm 2014) của Trần Thị Trâm; Một chặng đường đổi mới lý luận văn học Việt Nam (1986 - 2011), Lý luận phê bình văn học đổi mới và sáng tạo (năm 2013), Lý luận phê bình văn học: một góc nhìn mới (năm 2017) của Cao Thị Hồng; Truyện ngắn hiện đại Việt Nam 1945 - 1975 (các năm 2007, 2010), Văn học hiện đại Thanh Hóa (năm 2010) của Hỏa Diệu Thúy; Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 2010), Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình (năm 2011), Bản sắc văn hóa Tày trong tản văn Y Phương, Những người tự đục đá kê cao quê hương (năm 2015) của Lê Thị Bích Hồng.

Đó là những cuốn sách đứng tên chủ thể viết, chưa kể hàng loạt các công trình, cuốn sách in chung mà các chị làm chủ biên, đồng chủ biên hoặc tham gia, có tác động đáng kể đến giới nghiên cứu và giảng dạy văn học nghệ thuật, là những cuốn sách công cụ, từ lâu nay đã trở thành tài liệu tham khảo, tra cứu hữu ích và thiết thực cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh cùng bạn đọc quan tâm đến văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay, như: Nữ văn sĩ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Từ điển tác phẩm văn xuôi từ cuối thế kỷ IXX đến năm 2000, Trang giấy trước đèn, Di cảo Nguyễn Minh Châu, Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm, Xuân Diệu về tác gia tác phẩm, Văn học trong nhà trường tác gia, tác phẩm, Thơ mới - tác gia, tác phẩm, Lưu Quang Vũ thơ và đời, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Lưu Quang Vũ về tác gia và tác phẩm, Bản sắc dân tộc trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nghiên cứu lý luận phê bình văn học thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại - diện mạo và đặc điểm…

Điểm mặt rồi điểm tên tác phẩm của các cây bút nghiên cứu, phê bình dễ nhận thấy, với quân số ít ỏi nhưng các chị đã sánh bước cùng các đồng nghiệp nam giới làm nên một đội ngũ nghiên cứu phê bình chuyên nghiệp sau năm 1986 song hành với văn học đổi mới và hội nhập nói chung và với loại hình nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học nghệ thuật nói riêng. Nhìn chung, dù với những cách tiếp cận, cách nhìn ở những góc độ khác nhau nhưng các công trình và các cuốn sách nói trên của những cây bút nghiên cứu, phê bình nữ đều góp phần ghi nhận những chuyển động và đổi mới của văn học nghệ thuật Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay. Đặc biệt, tập trung vào tìm hiểu, nhận diện văn học Việt Nam hiện đại trên các bình diện sáng tạo và tiếp nhận qua các hiện tượng, trường hợp, khuynh hướng văn học, các vấn đề về thể loại, loại hình văn học, nghệ thuật; thực tiễn sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật để có những đóng góp đáng kể đối với đời sống văn học, nghệ thuật nước nhà qua các thời kỳ, đặc biệt với thời kỳ đổi mới và hội nhập văn học, văn hóa hiện nay.

Trong các cuốn sách của mình, các tác giả không chỉ khám phá cái đẹp, tìm ra những nét đặc sắc, khẳng định phẩm tính của đối tượng, của khách thể thẩm mỹ mà còn ở phía chủ thể cảm thụ và tiếp nhận. Bởi không chỉ với những người sáng tác mà với những người nghiên cứu, phê bình cũng phải đổi mới tư duy nghiên cứu cùng đổi mới lối viết cho phù hợp với tâm thế thời đại, với ngữ cảnh sáng tạo và cộng đồng tiếp nhận đương đại. Dễ nhận thấy, các cây bút nghiên cứu ở Viện Văn học và các trường đại học thường chuyên sâu vào văn học hiện đại và đương đại, tỏa hướng nghiên cứu vào loại hình: Thơ, văn xuôi, kịch bản sân khấu rồi bóc tách theo từng thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, ký hay trường hợp tác giả tiêu biểu của văn học nước nhà cùng đông đủ các nhà văn, nhà thơ xuất hiện sau năm 1975, nhất là sau năm 1986. Các tác giả văn chương đó thực sự là những “gương mặt thân quen” mà họ tiếp xúc, gặp gỡ trên những trang văn và trong cả cuộc sống thường ngày với mối liên hệ, giao lưu khá thân thiện của những người có một ngôi nhà chung là Hội Nhà văn, một không gian chung là đời sống văn học, văn hóa hiện thời. Và để có cách nhìn nhận, thẩm định văn học thời kỳ đổi mới, các nhà nghiên cứu, phê bình nữ không thể không có những trải nghiệm và nhận thức mới với văn học cùng thời. Đó là những vấn đề, đề tài thường gặp trong các tập phê bình tiểu luận của Mai Hương, Tôn Phương Lan, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, Lý Hoài Thu. Trong số các cây bút lý luận phê bình nữ cũng có một số người do yêu cầu giảng dạy ở đại học đã mở rộng “đường biên” nghiên cứu đến bộ môn nghệ thuật học, đi sâu vào sân khấu và báo chí như Nguyễn Thị Minh Thái, vận dụng văn học dân gian vào tìm hiểu các loại hình văn hóa và báo chí như Trần Thị Trâm, vào văn học dịch, vận dụng lý thuyết văn học nước ngoài nghiên cứu văn học Việt Nam như Trần Huyền Sâm, vào phê bình văn học trên báo chí như Chu Thị Thơm, vào mảng văn học các dân tộc thiểu số như Trần Thị Việt Trung, Lê Thị Bích Hồng, vào lý luận như Cao Thị Hồng, vào văn học vùng, miền như Hỏa Diệu Thúy. Dù chuyên sâu vào lĩnh vực, vấn đề, hiện tượng, tác giả, tác phẩm hay các giai đoạn khác nhau của quá trình văn học Việt Nam hiện đại, các cây bút đều tâm huyết với lĩnh vực chuyên môn mà mình lựa chọn. Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới và hội nhập, các chị đã “không chịu đi những lối mòn”, tự tìm cho mình một “khuôn mặt mới”. Các chị đều cố gắng bắt kịp những vấn đề học thuật mới mẻ, đổi mới cách tiếp cận và tiếp nhận ngõ hầu có được những công trình, những cuốn sách, bài viết mang tinh thần đổi mới, trong không khí dân chủ của đời sống văn học, văn hóa hiện nay. Và có thể nói, trong một chừng mực nào đó, các tác giả nghiên cứu, phê bình nữ đã nâng trang viết của mình tương xứng với không khí học thuật và thực tiễn văn học hôm nay.

Là những người xuất hiện vào những năm cuối của thế kỷ XX, luôn ý thức đồng hành với đời sống văn học đương đại, luôn “theo dòng văn học”, thế hệ phê bình nữ kể trên phần lớn đã đến độ tuổi “vào thu”. Song dường như trở thành quán tính như thói quen nghề nghiệp, họ vẫn hằng ngày đọc và viết... Những tác phẩm của họ vẫn lần lượt ra mắt công chúng và ít nhiều nhận được những đánh giá, nhận định khá công tâm của bạn đọc và dư luận. Không thật nhiều nhưng cũng không ít trong số những tác phẩm kể trên của họ đã nhận tặng thưởng hằng năm của các hội nghề nghiệp trung ương và địa phương. Đối với những người làm nghề, tặng thưởng nào cũng mang tính động viên, khích lệ, đem tới niềm tin, niềm vui trên con đường nghiên cứu, lý luận, phê bình mà họ đã dấn bước trong nhiều thập niên qua.

Đó là giải thưởng Văn học nghệ thuật Thủ đô của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội năm 2011 cho cuốn Đánh đường tìm hoa của Nguyễn Thị Minh Thái. Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2000 cho tập tiểu luận Văn học - một cách nhìn của Mai Hương. Giải thưởng (về lý luận phê bình văn học) của Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2011 cho cuốn Một chặng đường đổi mới lý luận văn học Việt Nam, năm 2013 cho cuốn Lý luận, phê bình văn học đổi mới và sáng tạo của Cao Thị Hồng. Giải thưởng của Ủy ban Toàn quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật cho cuốn Nghiên cứu lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại - diện mạo và đặc điểm năm 2014 của Trần Thị Việt Trung. Giải thưởng Hội Văn nghệ dân gian năm 2014 cho cuốn Văn học dân gian trong xã hội hiện đại của Trần Thị Trâm. Giải thưởng Tác phẩm phê bình xuất sắc năm 2003 của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế cho cuốn Tiếng nói thơ ca của Trần Huyền Sâm, Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2016 cho cuốn Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại của Trần Huyền Sâm. Tặng thưởng giải A của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương năm 2015 và Giải thưởng của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội năm 2016 cho cuốn Văn học Việt Nam hiện đại: sáng tạo và tiếp nhận của Bích Thu. Tặng thưởng giải B Hội đồng lý luận phê bình nghệ thuật Trung ương cho cuốn Văn nhân quân đội của Lý Hoài Thu.

Như trên đã nói, các cây bút lý luận phê bình sau năm 1975 dù có thâm niên nghề nghiệp đến đâu cũng không thể tránh được những giới hạn của tuổi tác, của thời gian. Như lẽ tự nhiên “tre già măng mọc”, lớp các cây bút phê bình nữ thế hệ 8x được ươm từ các môi trường đại học, các viện nghiên cứu đang đâm chồi nẩy lộc. Lớp trẻ này, vừa tiếp thu các lý thuyết mới của nước ngoài, vừa bắt nhanh với thực tiễn sáng tác đương đại, với cái nhìn tinh nhạy, với cách diễn ngôn của thế hệ phê bình hôm nay đã nhanh chóng hòa nhịp vào đời sống học thuật và phê bình văn chương đương đại. Bên cạnh tập tiểu luận phê bình mang tính chuyên nghiệp Âm thanh của tưởng tưởng của Lê Hồ Quang (Đại học Sư phạm Vinh) đoạt giải thưởng về lý luận, phê bình Hội Nhà văn Việt Nam năm 2015 là các chuyên luận gây nhiều chú ý của các gương mặt nghiên cứu trẻ: Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu thuyết của Cao Kim Lan (Viện Văn học), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI: cấu trúc và khuynh hướng của Hoàng Cẩm Giang (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn), Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15 năm cuối thế kỷ XX của Nguyễn Thị Mai Nhân (Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh), Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975: khuôn mặt cái tôi trữ tình của Bùi Bích Hạnh (Đại Học Đà Nẵng), Tiểu thuyết Việt Nam 1900 - 1930 của Lê Tú Anh (Đại học Hồng Đức), Thơ mới nhìn từ quan hệ văn hóa, văn học của Hoàng Thị Huế (Đại học Sư phạm Huế), Thơ dân tộc Tày sau năm 1975 của Đỗ Thị Thu Huyền (Viện Văn học)…

Chưa kể những công trình từ những luận án tiến sĩ sẽ trình diện giới nghiên cứu, phê bình trong nay mai, như: Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện của Đỗ Hải Ninh, Truyện ngắn Việt Nam từ sau năm 1986 dưới góc nhìn thể loại của Lê Hương Thủy (Viện Văn học). Có thể nói, những cây bút mới kể trên đang kế tiếp và là những chủ thể nghiên cứu, lý luận, phê bình chiếm vị trí trung tâm của đời sống học thuật đương đại. Họ hầu như có mặt trên các diễn đàn văn học, các hội thảo khoa học với ý thức bám sát các vấn đề mới nẩy sinh của lý luận và thực tiễn văn học nghệ thuật như văn chương mạng, phê bình văn học sinh thái, phê bình văn học nữ quyền… Tuy không cao đàm khoát luận như đám mày râu cùng trang lứa nhưng các cây bút nữ trẻ vẫn có ưu thế riêng ở sự chắt chiu, trầm tĩnh trước đối tượng và phạm vi nghiên cứu của mình.

Kế thừa và phát triển là quy luật của sự vận động. Tiếp nối lớp đàn chị trong nghiên cứu, phê bình trước năm 1975, các cây bút nghiên cứu, phê bình nữ trưởng thành từ sau năm 1986 là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nói riêng và làm nghề nói chung đã tạo nên một “dàn viết” tự tin trên con đường mà mình đã chọn, luôn song hành với đời sống lý luận phê bình và rộng ra với đời sống văn học đổi mới và hội nhập hôm nay./.