Vai trò của truyền thông trong điều chỉnh chính sách dân số ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Lê Hồng Hạnh
Học viện Chính sách và Phát triển
15:41, ngày 20-05-2025

TCCS - Chính sách dân số của Việt Nam đang có sự điều chỉnh nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu kinh tế - xã hội trong bối cảnh dân số biến đổi nhanh chóng từ kiểm soát sinh đẻ sang duy trì mức sinh hợp lý, thích ứng với già hóa dân số và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong quá trình điều chỉnh chính sách dân số, truyền thông luôn đóng vai trò quan trọng không chỉ trong việc tuyên truyền thực hiện chính sách, mà còn góp phần định hình nhận thức xã hội và hỗ trợ quá trình điều chỉnh mục tiêu chính sách.

Thực trạng truyền thông chính sách dân số ở Việt Nam

Mục tiêu cuối cùng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia là nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. Do đó, yếu tố con người luôn được coi là trung tâm của mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của dân số đối với quá trình phát triển, ngay từ những ngày đầu xây dựng đất nước, Chính phủ đã quan tâm tới vấn đề dân số bằng việc ban hành Quyết định số 216/CP, ngày 26-12-1961, “về sinh đẻ có hướng dẫn”. Đây là văn bản lịch sử đánh dấu sự khởi đầu của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam. Quyết định này được Hội đồng Chính phủ thông qua, với mục tiêu hướng dẫn người dân sinh đẻ có kế hoạch, vì sức khỏe của người mẹ, hạnh phúc và hòa thuận gia đình. 

Chính sách dân số tại Việt Nam từ năm 1961 cho đến nay trải qua nhiều thay đổi, từ mục tiêu kiểm soát sinh để giảm tốc độ gia tăng dân số đến việc khuyến khích sinh con và điều chỉnh mức sinh hợp lý trong bối cảnh mức sinh xuống thấp và dân số già hóa nhanh chóng. Trong quá trình thay đổi đó, truyền thông luôn đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, việc điều chỉnh chính sách dân số theo hướng linh hoạt và phù hợp với bối cảnh mới cũng đặt ra các yêu cầu mới, đòi hỏi truyền thông phải thích ứng cả về nội dung lẫn phương thức, nhằm tạo sự đồng thuận xã hội và thúc đẩy thay đổi hành vi một cách bền vững.

Từ năm 1961, trong bối cảnh đất nước bị chia cắt thành 2 miền, với mục tiêu thống nhất nước nhà, hàng triệu người dân Việt Nam đã ngã xuống, với đặc trưng dân số giai đoạn này là dân số tăng bù sau chiến tranh từ 1,1% (năm 1954) lên 3,8% (năm 1960), số con trung bình của một phụ nữ là 6,3 con(1). Vì vậy, chính sách dân số từ năm 1961 đến trước năm 1975 luôn tập trung vào mục tiêu “vận động sinh đẻ có kế hoạch”.

Sau khi đất nước thống nhất, số dân cả nước tăng nhanh, đạt 52,7 triệu người (gần gấp đôi số dân năm 1955), mức tăng dân số 2,1%(2). Vì thế, từ năm 1975 và đặc biệt trong suốt giai đoạn 1980 - 2010, Việt Nam triển khai chính sách dân số với trọng tâm là kiểm soát mức sinh. Từ năm 1981, Việt Nam chính thức triển khai chính sách kế hoạch hóa gia đình với mục tiêu được quy định rõ ràng “mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ 1 đến 2 con”(3). Chính sách này sau đó tiếp tục được củng cố trong nhiều văn bản quan trọng, như Chỉ thị 270/CT, năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng và Pháp lệnh dân số năm 2003, trong đó xác lập mục tiêu giảm nhanh và ổn định mức sinh, góp phần đưa quy mô dân số về mức hợp lý.

Trong giai đoạn này, truyền thông giữ vai trò nòng cốt trong việc tuyên truyền, vận động người dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Hình thức phổ biến được thực hiện trong thời kỳ này là tuyên truyền mang tính trực quan thông qua khẩu hiệu, tranh cổ động, các phương tiện phát thanh - truyền hình, và các chiến dịch truyền thông cộng đồng. Khẩu hiệu tiêu biểu như “Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ một đến hai con để nuôi dạy cho tốt”, “Sinh ít con để nuôi dạy cho tốt”, “Dừng lại ở hai con”. Những khẩu hiệu này được phổ biến rộng rãi trên tường làng, băng rôn, loa phát thanh phường, xã cho thấy tính chất “toàn dân - toàn diện - thường xuyên” của chiến dịch truyền thông.

Các áp phích này là công cụ trực quan và phổ biến trong truyền thông dân số ở giai đoạn này, được dán ở trụ sở ủy ban nhân dân các xã, nhà văn hóa, trường học và nơi công cộng để “dễ thấy, dễ nhìn, dễ quan sát”, từ đó dễ tác động trực tiếp đến cộng đồng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi là những nơi phương tiện truyền thông đại chúng còn hạn chế. Ngoài áp phích, tranh cổ động, thời kỳ này các phương tiện truyền thông như báo in, phát thanh, truyền hình cũng phát huy vai trò tích cực. Đặc biệt, hệ thống loa phát thanh công cộng tại các xã, phường phát đều đặn các chương trình về kế hoạch hóa gia đình, lợi ích của việc sinh ít con, sử dụng biện pháp tránh thai,… với chi phí thấp song lại có tác dụng lan tỏa, nhất là ở các vùng nông thôn. Bên cạnh đó, các thông tin truyền thông còn được thể hiện thông qua hình thức sân khấu hóa (tuồng, chèo, cải lương), qua phim ngắn, phim tài liệu. Các đội văn nghệ xã, huyện tổ chức biểu diễn tiểu phẩm sân khấu, chèo, cải lương, kịch ngắn lồng ghép thông điệp kế hoạch hóa gia đình tại hội làng, chợ phiên. Các tình huống gần gũi, dễ nhớ, tạo cảm xúc đã có những tác động nhất định trong thay đổi nhận thức của người dân các địa phương.

Có thể nói, trong giai đoạn thực hiện mục tiêu kiểm soát sinh, truyền thông đóng vai trò định hướng tư tưởng, thay đổi hành vi xã hội bằng cách lặp đi lặp lại thông điệp rõ ràng, ngắn gọn, dễ nhớ qua nhiều kênh truyền thông. Tuy nhiên, hình thức truyền thông trong giai đoạn này phần lớn mang tính một chiều, nhấn mạnh vào nghĩa vụ hơn là quyền lựa chọn, dẫn đến hệ quả là niềm tin cố hữu rằng sinh ít con là chuẩn mực xã hội và điều này đã trở thành một rào cản lớn khi chính sách chuyển sang khuyến khích sinh con ở giai đoạn sau.

Việt Nam đạt mức sinh thay thế vào năm 2006, đây là một thành tựu lớn sau hơn 30 năm thực hiện chính sách kiểm soát mức sinh và duy trì mức này đến năm 2021. Tuy nhiên, từ năm 2022, mức sinh bắt đầu giảm xuống dưới mức thay thế, đạt 1,96 vào năm 2023 và tiếp tục giảm còn 1,91 vào năm 2024, đánh dấu mức thấp nhất trong lịch sử. Ở giai đoạn này, truyền thông lại tập trung vào thay đổi nhận thức và thái độ của công chúng. Truyền thông chính sách nhằm tác động đến cách mà người dân nhìn nhận về giá trị của con cái, gia đình và vai trò của trẻ em trong phát triển quốc gia. Các chương trình trên truyền hình, phát thanh, báo chí đều được sử dụng để phổ biến thông điệp. Những câu chuyện thành công, video clip và các phóng sự thực tế được sản xuất nhằm minh họa hiệu quả của việc xây dựng một gia đình có đủ con.

Với sự bùng nổ của mạng internet, các chiến dịch truyền thông trực tuyến được triển khai rộng rãi qua các phương tiện truyền thông xã hội, như Facebook, YouTube và các nền tảng truyền thông xã hội khác. Các hashtag, chiến dịch tương tác và video ngắn được phát hành nhằm tiếp cận đối tượng thanh, thiếu niên và các gia đình trẻ. Ngoài ra, các hoạt động trực tiếp như hội thảo, tọa đàm và chương trình tập huấn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích các chính sách, chia sẻ thông tin và trao đổi kinh nghiệm về phương pháp quản lý cân đối giữa phát triển dân số và chất lượng nguồn nhân lực.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông trong giai đoạn điều chỉnh chính sách dân số ở Việt Nam

Quá trình chuyển đổi từ mục tiêu kiểm soát sinh đẻ sang khuyến khích sinh, duy trì mức sinh thay thế không hề đơn giản. Trong quá trình này, truyền thông cần phải bảo đảm một số yêu cầu căn bản.

Thứ nhất, phải tái định hình nhận thức xã hội. Trong suốt hàng chục năm, các thông điệp về kiếm soát sinh như “Dừng lại ở hai con để nuôi dạy cho tốt”, “Sinh ít cho con nhiều cơ hội”… đã ăn sâu trong tiềm thức của người dân, từ đó hình thành nên chuẩn mực xã hội về sinh ít con mới là tiến bộ, văn minh. Vì vậy, ngay cả khi mục tiêu chính sách dân số thay đổi thì nhận thức của người dân cũng không thể thay đổi ngay trong một sớm một chiều. Do đó, truyền thông chính sách dân số cần phải định nghĩa lại cấu trúc gia đình hiện đại, đó là gia đình không chỉ là ít con, mà là đủ con để gắn với phát triển toàn diện, hạnh phúc và bền vững.

Thứ hai, phải hình thành dư luận xã hội tích cực và xây dựng sự đồng thuận xã hội cho quá trình thay đổi mục tiêu chính sách dân số ở Việt Nam. Cần phải hình thành một dư luận xã hội tích cực, nơi sinh đủ hai con được coi là hành vi “bình thường mới”, là chuẩn mực xã hội mới phù hợp với bối cảnh hiện tại.

Thứ ba, phải tác động nhằm thay đổi hành vi của người dân về sinh đủ số con. Muốn đạt được điều này, truyền thông không thể dừng ở việc “nói cho biết”, mà cần tác động thực chất đến hành vi thông qua thay đổi nhận thức, thái độ và niềm tin.

Thứ tư, nội dung và phương pháp, công cụ truyền thông phải thay đổi phù hợp với sự chuyển đổi mục tiêu chính sách dân số. Cụ thể, nội dung truyền thông cần chuyển từ thông điệp hạn chế, kiểm soát sang truyền tải giá trị tích cực của việc sinh con.

Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả truyền thông với mục tiêu khuyến khích sinh đủ con, duy trì mức sinh thay thế, cần tập trung thực hiện những giải pháp sau:

Một là, xây dựng chiến lược truyền thông phù hợp với bối cảnh mức sinh thấp, chính sách dân số chuyển đổi mục tiêu sang khuyến khích sinh đủ 2 con và duy trì mức sinh thay thế với 3 trụ cột chính là: Truyền thông định hướng nhận thức; truyền thông thúc đẩy hành vi; truyền thông thay đổi chuẩn mực xã hội về cấu trúc gia đình.

Về truyền thông định hướng nhận thức, cần giải thích rõ về lợi ích sinh đủ hai con đối với cá nhân, gia đình và xã hội, khắc phục hiểu lầm và tâm lý e ngại về chính sách sinh con, đồng thời tăng niềm tin rằng sinh đủ con là phù hợp với thời đại, được xã hội tôn trọng và chính sách hỗ trợ.

Về truyền thông thúc đẩy hành vi, cần tập trung vào các hoạt động và sản phẩm nhằm cung cấp thông tin cụ thể về các hỗ trợ thực tế (miễn học phí, trợ cấp, nghỉ thai sản...) - những yếu tố có thể tác động trực tiếp tới quyết định sinh con của các cặp vợ chồng, nhất là các cặp vợ chồng trẻ đang phải chịu nhiều áp lực.

Về truyền thông thay đổi chuẩn mực xã hội về cấu trúc gia đình, cần tập trung xây dựng lại hình ảnh “gia đình sinh đủ hai con” như là chuẩn mực văn hóa mới, từ đó giảm thiểu các định kiến tiêu cực như: “sinh hai con là gánh nặng”, “không sinh con để tự do hơn”. Do đó, cần thiết kế các thông điệp truyền thông phù hợp với tâm lý người dân, nhất là các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, chú ý truyền thông cá nhân hóa với nội dung đúng người, đúng lúc, đúng cách. Ngoài ra, có thể phát huy vai trò của truyền thông nêu gương thông qua hình ảnh các gia đình tiêu biểu sinh đủ hai con, có cuộc sống hạnh phúc, cân bằng sự nghiệp và nuôi dạy con tốt.

Hai là, chuyển đổi từ mô hình “tuyên truyền” sang “giao tiếp - tham vấn - đồng sáng tạo với người dân”. Gắn với mục tiêu kiểm soát sinh đẻ, truyền thông dân số ở Việt Nam chủ yếu vận hành theo mô hình “tuyên truyền một chiều”, với đặc trưng là thông tin được thiết kế sẵn từ cơ quan quản lý, sau đó chuyển tải xuống cộng đồng qua các kênh, như áp phích, khẩu hiệu, loa truyền thanh, bản tin… Tuy nhiên, trong bối cảnh mới cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, xã hội ngày càng đa dạng và hành vi sinh sản mang tính cá nhân, tự chủ hơn, đòi hỏi truyền thông phải thay đổi căn bản cách tiếp cận từ “nói cho dân nghe” sang “nghe dân nói và cùng hành động với dân”, coi người dân là khách hàng, là đối tác để cùng các chiến dịch truyền thông luôn đồng hành với người dân. Đặc biệt, để truyền thông dân số có hiệu quả, người dân không chỉ là người nghe mà còn có thể cùng tham gia tạo ra nội dung, định hình thông điệp thông qua các hình thức như khuyến khích các gia đình trẻ chia sẻ trải nghiệm để lan tỏa tinh thần “sinh đủ con”; cùng cộng đồng xây dựng các hoạt động truyền thông tại địa phương: hội thi gia đình hạnh phúc, nhóm hỗ trợ sinh con đầu lòng, diễn đàn bố mẹ trẻ…

Ba là, tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông xã hi, trên các nền tảng truyền thông số với hình thức đa dạng, lựa chọn phù hợp với đối tượng mục tiêu. Để truyền thông hiệu quả về dân số và gia đình, có thể sử dụng đa dạng các phương tiện truyền thông, nền tảng mạng xã hội và hình thức phù hợp với từng nhóm đối tượng mục tiêu. Đối với đa số người, đặc biệt là người lớn tuổi, các chương trình phóng sự, talkshow và chuyên đề trên đài truyền hình, phát thanh sẽ giúp truyền tải thông tin sâu sắc và dễ tiếp nhận. Báo chí với các bài viết chuyên đề, thông tin dân số và gương người tốt việc tốt cũng là một kênh quan trọng nhằm tiếp cận đông đảo công chúng. Tại các khu vực nông thôn và khu công nghiệp, truyền thông qua cộng đồng địa phương, như pano, loa phát thanh, tư vấn trực tiếp hoặc tổ chức hội thi gia đình sẽ giúp lan tỏa thông tin hiệu quả. Trong các cơ quan, trường học và doanh nghiệp, truyền thông nội bộ, như tờ rơi, bản tin, tọa đàm nhỏ hay tư vấn nhóm là hình thức phù hợp để tiếp cận cán bộ, công nhân, giáo viên và phụ huynh. Đối với giới trẻ và những người trong độ tuổi sinh đẻ, các nền tảng mạng xã hội, như Facebook, TikTok, YouTube cùng với video ngắn, clip cảm xúc, câu chuyện truyền cảm hứng, livestream và thông qua KOL, KOC sẽ tạo sức hút mạnh mẽ và lan tỏa nhanh chóng thông điệp dân số.

Bốn là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông dân số tại địa phương. Trong bối cảnh chính sách dân số đang chuyển dịch mạnh mẽ sang khuyến khích sinh đủ con và duy trì mức sinh hợp lý, đội ngũ truyền thông dân số tại cơ sở cần được đào tạo lại một cách căn bản và có hệ thống để thích ứng với yêu cầu mới. Đội ngũ truyền thông dân số tại địa phương phải là những người am hiểu về sự chuyển dịch chính sách dân số và tâm lý hành vi của các nhóm dân cư khác nhau (người trẻ, cặp đôi chưa cưới, công nhân, người có học vấn cao…), đồng thời phải có năng lực xây dựng thông điệp phù hợp, cá nhân hóa, thay vì sử dụng khuôn mẫu. Bên cạnh đó, đội ngũ này cần có sự linh hoạt, có khả năng sử dụng công cụ truyền thông hiện đại, tích hợp phương tiện tuyên truyền truyền thống và số hóa…, góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của truyền thông trong bối cảnh mới./.

-----------------

(1) Tổng cục Thống kê: Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999, Nxb. Thống kê, Hà Nội
(2) Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương: Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999: Kết quả sơ bộ, Nxb. Thế giới, Hà Nội
(3) Chỉ thị số 29-HĐBT, ngày 12-8-1981, của Hội đồng Bộ trưởng “về việc đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong 5 năm 1981- 1985”