Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Sự phát triển trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới và những vấn đề đặt ra
TCCS - Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam (XHCN) từng bước được bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những trụ cột của thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước(1); là sự sáng tạo và đột phá lý luận của Đảng ta.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương _Ảnh: TTXVN
Bước chuyển trong nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
Thứ nhất, bước chuyển trong nhận thức về tính tất yếu khách quan và vai trò của kinh tế thị trường đối với xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ chỗ phủ nhận kinh tế thị trường, coi kinh tế thị trường đối lập với chủ nghĩa xã hội, đảng viên không được làm kinh tế tư nhân, Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường là sản phẩm chung của văn minh nhân loại; là phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những trụ cột của thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước; đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Đồng thời, nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng được nhận thức đầy đủ hơn.
Đại hội VI của Đảng đề ra mục tiêu là phải đổi mới kinh tế, sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, nhằm ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội: Giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất trong xã hội nhằm vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng; phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân...
Kế thừa nhận thức về tính tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng XHCN(2), về mục tiêu phát triển đất nước(3) và quan điểm về mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta(4), đến nay Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những trụ cột của thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước(5).
Thứ hai, bước chuyển trong nhận thức về sở hữu và các thành tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ chỗ coi sở hữu trong nền kinh tế kinh tế thị trường định hướng XHCN là đơn sở hữu, đối xử phân biệt, nhất là đối với thành phần kinh tế tư nhân, Đảng ta đã xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế đa sở hữu, đa thành phần kinh tế; các khu vực kinh tế tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, hệ thống thị trường cần được tạo dựng đồng bộ, hiện đại phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức của Đảng về các thành tố của kinh tế hàng hóa kể từ Đại hội VI, bao gồm các thành phần kinh tế, doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau, Nhà nước, các loại thị trường…, đã từng bước được bổ sung, phát triển và hoàn thiện theo quá trình hình thành, phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đến nay, đã hình thành nhận thức chung về các thành tố cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam bao gồm:
Hệ thống chủ thể kinh doanh với đa dạng hình thức sở hữu và các khu vực kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Hệ thống đồng bộ yếu tố thị trường, như hàng hóa, dịch vụ, các yếu tố đầu vào và nguồn lực của sản xuất, kinh doanh, giá cả thị trường...; các loại thị trường, như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường các nhân tố sản xuất…
Thứ ba, bước chuyển trong nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta khẳng định, chủ thể lãnh đạo, quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cùng với toàn thể nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ.
Từ quan điểm “Nhà nước làm thay thị trường”, “Nhà nước làm tất cả”, Đảng ta đã xác định, Nhà nước chủ yếu thực hiện vai trò quản lý, kiến tạo môi trường phát triển, khắc phục khuyết tật của thị trường, đa dạng hóa chủ thể làm kinh tế, giảm độc quyền nhà nước, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp...; từ quản lý theo cơ chế tập trung bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị trường; từ việc chỉ có Nhà nước điều tiết thị trường sang Nhà nước và các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp cùng phối hợp để điều tiết thị trường; từ Nhà nước đóng vai trò quyết định và chủ yếu trong phân bổ nguồn lực sang thị trường đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ nguồn lực; là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất(6).
Nhà nước với tư cách là chủ thể của kinh tế thị trường định hướng XHCN được phân biệt ngày càng rõ nét hơn với các chức năng chủ thể điều tiết, quản lý nền kinh tế và chủ thể sở hữu, kinh doanh dưới hình thái doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường.
Thứ tư, bước chuyển trong nhận thức về cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ nhận thức phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quy luật giá trị với tư cách là yếu tố bổ sung cho kế hoạch trong cơ chế vận hành của nền kinh tế, Đảng ta từng bước khẳng định nền kinh tế phải vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, trong đó cần phát huy tính năng động, sáng tạo của các chủ thể trong phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ phân phối thu nhập bình quân, cào bằng, từ không thừa nhận đến thừa nhận đa dạng hóa hình thức phân phối thu nhập và phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Thứ năm, bước chuyển trong nhận thức về hội nhập quốc tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ quan điểm phát triển nền kinh tế “khép kín”, Đảng ta đã có cách nhìn mở, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; từ không chấp nhận đến chấp nhận đầu tư nước ngoài và coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế được khuyến khích phát triển.
Kể từ sau đổi mới năm 1986, Đảng ta luôn nỗ lực hoàn thiện, phát triển nhận thức lý luận về mối quan hệ giữa phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu, rộng, thích ứng hợp lý với bối cảnh mới, tạo cơ sở khoa học cho giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước; phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ biến động bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế; thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn; hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế.
Thứ sáu, bước chuyển trong nhận thức về các mối quan hệ biện chứng trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn và cụ thể hơn về các mối quan hệ biện chứng trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đến nay, Đảng ta xác định, có 6 mối quan hệ biện chứng cần giải quyết trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cụ thể là các mối quan hệ: 1- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 2- Giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; 3- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; 4- Giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; 5- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; 6- Giữa phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế(7).
Như vậy, với những bước chuyển trong nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có thể thấy, qua 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN và đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã từng bước được hình thành, không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Đó là, kinh tế thị trường là tất yếu, khách quan; là sản phẩm chung của văn minh nhân loại; là phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội; kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những trụ cột của thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; đồng thời, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nội hàm đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng được nhận thức rõ hơn, đó là phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; xử lý tốt các mối quan hệ lớn, nhất là mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; phát triển kinh tế nhanh và bền vững; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững định hướng XHCN. Trong đó, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với công nhân, người lao động tại Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi _Ảnh: TTXVN
Sự sáng tạo và đột phá trong tư duy, lý luận của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự sáng tạo và đột phá về lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự sáng tạo và đột phá đó được tạo nên bởi sự đổi mới và sáng tạo liên tục trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở kiên định, vận dụng đúng đắn, sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu chọn lọc thành tựu mới nhất về lý luận của thế giới và không ngừng tổng kết thực tiễn trong suốt 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Điều này được thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có sự gắn kết hữu cơ và biện chứng giữa tính thị trường, tính phổ quát với tính XHCN, tính đặc thù của Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là một dạng thức của kinh tế thị trường trên thế giới: “Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”(8).
Tính thị trường, tính phổ quát của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện ở chỗ, đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường (như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu…) dưới sự điều tiết của nhà nước pháp quyền. Nền kinh tế vận hành với đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng hình thức tổ chức sản xuất và kinh doanh, đa dạng các loại thị trường. Nền kinh tế phát triển dựa trên thành tựu mới nhất của khoa học, công nghệ, phát triển theo hướng bền vững, bao trùm, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Tính xã hội chủ nghĩa, tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện ở mục tiêu, phương thức vận hành, phương thức quản lý và điều tiết, cơ chế phân bổ nguồn lực và kết quả được tạo ra… Cụ thể như:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những trụ cột của thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước; là một trong những phương thức để đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; phương thức để đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, trong đó con người là trung tâm và không để ai bị bỏ lại phía sau.
Kinh tế thị trường vận hành dưới sự điều tiết và quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự tham gia và giám sát của nhân dân và xã hội. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định, bảo đảm tính định hướng XHCN; bảo đảm tác động tiêu cực của thị trường cũng như can thiệp của Nhà nước vào thị trường được hạn chế ở mức thấp nhất(9), đồng thời tác động tích cực của thị trường và vai trò kiến tạo của Nhà nước được phát huy ở mức cao nhất, phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Trong đó, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng.
Nền kinh tế có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa; giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển; là nền kinh tế phát triển hài hòa với tự nhiên và coi bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ mang tính sống còn. “Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”(10) cũng như không đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế với môi trường.
Đảng ta đã kế thừa thành tựu của văn minh nhân loại một cách chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm tạo dựng điều kiện vật chất cần thiết. “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(11).
Thứ hai, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là “một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường”(12); là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện một nền kinh tế kém phát triển, lại bị tác động nặng nề do hậu quả của chiến tranh để lại. Nhiều yếu tố cần được xem xét trên cả hai khía cạnh: tính thị trường và định hướng XHCN, như mức độ hoàn thiện và hiện đại của thể chế cho phát triển thị trường; khả năng quản lý, điều hành của Nhà nước; trình độ phát triển của thị trường các nhân tố sản xuất; năng suất lao động; hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là của doanh nghiệp nhà nước; mức độ hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế; thu nhập của nhân dân, sự bình đẳng trong phát triển giữa vùng, miền, giữa thành thị với nông thôn; sự phát triển hài hòa với tự nhiên và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu... Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đây là một quá trình lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì, linh hoạt và sáng tạo.
Thứ ba, lý luận về xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng và xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam nói chung từng bước được hoàn thiện trong 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã tạo nền tảng cho việc đưa ra chính sách và chiến lược phát triển của đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn 10 năm (2021 - 2030), mở ra một giai đoạn mới cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đây là giai đoạn phát triển với thế và lực mới, với tầm nhìn và mục tiêu đặt ra cụ thể hơn và khát vọng hơn về phát triển đất nước giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh và hạnh phúc(13); là giai đoạn phát triển mang tính bền vững hơn, bao trùm hơn, dựa nhiều hơn vào nâng cao hiệu quả nguồn lực và đổi mới sáng tạo trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi nhanh, mạnh và khó lường(14).
Mô hình canh tác lúa thông minh phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh được triển khai tại huyện Vị Thủy (Hậu Giang) mang lại lợi nhuận cao gấp đôi so với phương pháp truyền thống, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường _Ảnh: TTXVN
Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Mặc dù liên tục có sự củng cố, bổ sung và hoàn thiện, nhưng lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam vẫn chưa thực sự đầy đủ; nhận thức về một số vấn đề lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chưa đủ rõ, chưa thực sự sâu sắc và thống nhất.
Thứ nhất, về vai trò của tính định hướng xã hội chủ nghĩa đối với phát triển nền kinh tế thị trường.
Về cơ bản, tính định hướng XHCN mới dừng lại ở mức gắn với mục tiêu phát triển của đất nước, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong quan hệ phân phối, thu nhập, vẫn còn chưa thực sự rõ vai trò của tính định hướng XHCN đối với hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, đối với thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế…, qua đó thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững. Chưa thực sự rõ về mối quan hệ biện chứng giữa tính thị trường và tính XHCN của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN qua các giai đoạn phát triển.
Thứ hai, về mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế trong việc thực hiện vai trò, chức năng của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước được xác định là có vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng và được khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục được xem xét, như việc phát huy đúng, phát huy cao nhất vai trò, chức năng của từng khu vực kinh tế trong nền kinh tế? Việc phát huy vai trò nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước?… Vẫn còn có ý kiến cho rằng, một khi các khu vực kinh tế thực hiện vai trò của mình như đã nêu trên thì khó có thể có sự bình đẳng hoặc sẽ xảy ra tình trạng lạm dụng hay cho rằng việc sử dụng thuật ngữ “thành phần kinh tế” hàm ý có sự phân biệt đối xử, do đó đề nghị nên thay bằng “khu vực kinh tế” cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ ba, về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực kinh tế và mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Nội hàm và phạm vi của phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế là vấn đề cần tiếp tục quan tâm nghiên cứu để vừa bảo đảm được vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, vừa bảo đảm tính hiệu quả và năng động của thị trường; bảo đảm không xảy ra hiện tượng tiêu cực, như can thiệp quá mức vào thị trường hay bỏ mặc thị trường hay có sự câu kết giữa Nhà nước và thị trường với tác động tiêu cực, như lạm dụng, tham nhũng; việc phát huy được vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều tiết thị trường; mối quan hệ, tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, xã hội, giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; giữa vai trò của Nhà nước và thị trường trong phân bổ nguồn lực, nhất là nguồn lực do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, như đất đai, tài nguyên thiên nhiên…
Thứ tư, về vai trò và tác động của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức về biểu hiện và tác động của các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chưa đủ rõ để có thể vận dụng đúng đắn, hiệu quả, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Như vậy, qua 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN và đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã từng bước được hình thành, không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự sáng tạo và đột phá về lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự sáng tạo và đột phá đó được tạo nên bởi sự đổi mới và sáng tạo liên tục trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở kiên định, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với điều kiện của Việt Nam và không ngừng tổng kết thực tiễn trong suốt 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Thực tiễn và bối cảnh không ngừng vận động, phát triển đang đặt ra một số vấn đề mới, do đó cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm thế giới phù hợp điều kiện của Việt Nam để bổ sung, hoàn thiện nhận thức lý luận về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, cung cấp cơ sở khoa học cho việc đề ra cơ chế, chính sách nhằm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước đã đặt ra ./.
----------------
(1) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Kiên định hệ quan điểm chỉ đạo; gắn kết nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, định hướng chính sách; chuẩn bị các văn kiện Đại hội XIV của Đảng một cách khoa học, nghiêm túc, đổi mới, chất lượng cao và đúng tiến độ”, Tạp chí Cộng sản, số 1033, tháng 3-2024
(2) Được đưa ra trong Đại hội VIII (1996)
(3) Được hoàn thiện trong Đại hội XI “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
(4) Được đưa ra trong Đại hội IX (2001)
(5) Đại hội XIII (2021)
(6) Các nghị quyết Trung ương Đảng 2016 - 2020, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 94
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, t. I, tr. 119
(8) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2022, tr. 26
(9) Sự can thiệp quá mức, sự buông lỏng trong quản lý nhà nước đối với thị trường hay sự câu kết giữa Nhà nước với thị trường dưới hình thức “chủ nghĩa tư bản thân hữu”
(10), (11), (12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 27, 21 - 22, 26
(13) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, t. I, tr. 112
(14) Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; biến đổi khí hậu; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch COVID-19; hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu và rộng…