Hướng tới Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương 2017 và vai trò của nước chủ nhà Việt Nam
TCCS - Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập vào ngày 6-11-1989, tại Thủ đô Can-bê-ra (Ô-xtrây-li-a). Đến nay, APEC có 21 thành viên(1) với sự góp mặt của nhiều nền kinh tế mạnh và năng động, trở thành khu vực có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất, tiềm lực lớn nhất và hợp tác sôi động nhất trên thế giới, dẫn dắt sự phục hồi và phát triển kinh tế toàn cầu khi chiếm 59% dân số, 70% nguồn tài nguyên thiên nhiên; đóng góp 57% GDP và 47% thương mại thế giới(2). Hơn thế nữa, sự phong phú, đa dạng về kinh tế, văn hóa, chính trị của liên kết này cũng tạo điều kiện cho APEC phát triển mạnh hơn.
Quá trình phát triển của APEC
Kể từ khi thành lập đến nay, APEC đã trải qua 22 kỳ hội nghị với nhiều thay đổi và tiến bộ quan trọng cả về tính chất, nội dung cũng như cơ chế hoạt động. Có thể chia tiến trình phát triển của APEC thành bốn giai đoạn:
Giai đoạn định hình (1989 - 1992)
Năm 1989, Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ nhất họp ở Can-bê-ra đưa ra ý tưởng về “chủ nghĩa khu vực mở”, tiến tới xây dựng một khu vực châu Á - Thái Bình Dương tự do thương mại và đầu tư, không phân biệt đối xử giữa các nước thành viên APEC, cũng như với các nước ngoài APEC. Một năm sau (tháng 7-1990), tại Xin-ga-po, Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ hai đưa ra những lĩnh vực hoạt động về tổng hợp các dữ liệu thương mại và đầu tư; thúc đẩy thương mại, mở rộng đầu tư và chuyển giao kỹ thuật ở châu Á - Thái Bình Dương, phát triển các nguồn nhân lực đa phương; hợp tác khu vực trong lĩnh vực năng lượng, bảo tồn tài nguyên biển. Tiếp đó, tháng 11-1991, Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ ba diễn ra tại Thủ đô Xơ-un (Hàn Quốc) quyết định tiếp tục phát triển các lĩnh vực mà hội nghị trước đưa ra, đồng thời bổ sung ba lĩnh vực: đánh cá, giao thông và du lịch. Tháng 9-1992, tại Thủ đô Băng-cốc (Thái Lan), Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư tiếp tục xem xét và triển khai những lĩnh vực đã được đề ra từ những hội nghị trước. Đây được coi là giai đoạn định hình, tập trung xây dựng khuôn khổ ban đầu cho hợp tác kinh tế, xác định dần các lĩnh vực cần đưa ra hợp tác ở cấp khu vực và thành lập các ủy ban, nhóm chuyên gia, nhóm công tác.
Giai đoạn hợp tác kinh tế (1993 - 2000)
Từ năm 1993, tiến trình APEC có bước tiến quan trọng khi nguyên thủ và người đứng đầu chính phủ của tất cả các quốc gia thành viên (không tính Hồng Công và Đài Loan thuộc Trung Quốc) nhất trí tổ chức “Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC” (AELM) hằng năm, theo đó nguyên thủ của tất cả các nước thành viên APEC sẽ gặp nhau mỗi năm một lần trong một kỳ họp thượng đỉnh, được tổ chức lần lượt tại mỗi nền kinh tế thành viên APEC, nhằm trao đổi về những vấn đề quan trọng của tổ chức này.
Tháng 11-1993, Hội nghị AEML lần thứ nhất được tổ chức tại đảo Blếch thuộc thành phố Xi-át-tơn (Mỹ) đề ra viễn cảnh “Tinh thần cộng đồng khu vực châu Á - Thái Bình Dương” sẽ tiến đến thịnh vượng thông qua hợp tác và cam kết xây dựng cộng đồng châu Á - Thái Bình Dương thành khu vực mậu dịch và đầu tư tự do, đồng thời quyết định đặt trụ sở của APEC tại Xin-ga-po.
Hội nghị AELM lần thứ hai (tháng 11-1994) tại thành phố Bô-gô (In-đô-nê-xi-a) đề ra “Mục tiêu Bô-gô” với nội dung mở rộng, tự do hóa thương mại và đầu tư bằng cách giảm thiểu hàng rào thuế quan trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương chỉ còn 0% - 5% vào năm 2010 đối với các nền kinh tế phát triển và vào năm 2020 đối với các nền kinh tế đang phát triển. Các thành viên APEC cũng thỏa thuận tăng cường hợp tác kinh tế trong khu vực, nhằm củng cố hệ thống thương mại đa phương mở, thúc đẩy hợp tác phát triển.
Đánh dấu một bước tiến cụ thể hơn, tại thành phố Ô-xa-ka (Nhật Bản), Hội nghị AELM lần thứ ba (tháng 11-1995) thông qua Chương trình Hành động Ô-xa-ka (OAA) với ba nội dung chính: tự do hóa thương mại và đầu tư; thuận lợi hóa thương mại, hợp tác kinh tế kỹ thuật (Ecotech) để thực hiện Mục tiêu Bô-gô; thành lập Hội đồng Tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC) với thành phần nhân sự là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp ở các ngành khác nhau đến từ các nền kinh tế thành viên (mỗi nước cử ba người), giữ vai trò tư vấn cho các nhà lãnh đạo APEC(3).
Tháng 11-1996, Hội nghị AELM lần thứ tư được tổ chức tại Thủ đô Ma-ni-la (Phi-líp-pin) đã thông qua Kế hoạch Hành động Ma-ni-la (MAPA), đề ra các biện pháp tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư để thực hiện Mục tiêu Bô-gô, Các kế hoạch hành động tập thể (CAP) và Kế hoạch Hành động quốc gia (IAP) gồm các biện pháp tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư sẽ được áp dụng đối với 15 lĩnh vực cụ thể. Đây là bước đi đầu tiên trong quá trình tự nguyện thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư của APEC.
Các hội nghị AELM từ lần thứ năm đến lần thứ tám diễn ra trong bối cảnh phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á. Trong bối cảnh đó các nhà lãnh đạo APEC đã tiến hành thúc đẩy các vấn đề, như đánh giá về mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng này đối với nền kinh tế khu vực và thế giới; tìm ra biện pháp có hiệu quả, theo nguyên tắc đồng thuận và tự nguyện, tạo đà cho sự phát triển bền vững, phù hợp với yêu cầu cụ thể của mỗi nền kinh tế; bảo đảm thực hiện thành công việc thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, mang lại phồn vinh cho toàn khu vực...
Giai đoạn hợp tác kinh tế đi liền với chống khủng bố (2001 - 2007)
Sự kiện khủng bố tấn công tòa tháp đôi ở Mỹ ngày 11-9-2001 đã gây ra những tổn thất lớn đối với Mỹ - siêu cường hàng đầu thế giới. Chính vì vậy, một yêu cầu khẩn thiết đối với chính quyền Mỹ là đồng thời với việc tiến hành những biện pháp siết chặt an ninh trong nước, phải tiến hành cuộc chiến chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu. Quyết tâm chống khủng bố của Mỹ được thể hiện trong chương trình nghị sự của các hội nghị AELM từ lần thứ chín, bởi các nước cho rằng, hợp tác kinh tế không thể có hiệu quả nếu an ninh của mỗi nước cũng như trên phạm vi toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và trên toàn cầu nói chung không được bảo đảm.
Bởi vậy, bên cạnh việc tập trung bàn thảo và đề ra biện pháp đối phó với những thách thức mới trong thế kỷ mới, nhất là với khủng bố và an ninh phi truyền thống, các hội nghị AELM (từ năm 2001 đến 2007) còn tập trung vào các vấn đề: 1- Tìm ra giải pháp để thực hiện Mục tiêu Bô-gô, ủng hộ hệ thống thương mại đa phương, ủng hộ việc nối lại và kết thúc vòng đàm phán Đô-ha; 2- Cam kết phát triển và thực thi những tiêu chuẩn về tính minh bạch của APEC, cắt giảm chi phí giao dịch (cả thương mại và đầu tư) trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương; 3- Mở rộng sự tham gia của nhân dân, thanh niên và phụ nữ vào tiến trình APEC, đẩy mạnh tuyên truyền về lợi ích của toàn cầu hóa; 4- Đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư, thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do, kể cả hiệp định thương mại tự do song phương và hiệp định thương mại khu vực, trong đó bao gồm cả việc nghiên cứu thành lập Khu vực Mậu dịch tự do châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP); 5- Tìm kiếm những nhân tố cơ bản bảo đảm tính năng động, sự tăng trưởng và phát triển bền vững trong APEC; 6- Tăng cường và mở rộng hợp tác nhằm ngăn chặn dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, những biến động về năng lượng và phát triển sạch, những nguy cơ có ảnh hưởng không nhỏ đến sinh mạng và cuộc sống của mọi người dân; 7- Cải cách APEC và kết nạp thành viên mới; 8- Thúc đẩy phát triển sạch.
Giai đoạn hợp tác khắc phục và vượt qua khủng hoảng (từ năm 2008 đến nay)
Sau cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ - “Trung tâm tài chính” thế giới vào năm 2008, tất cả các nước đều tích cực đưa ra những biện pháp để khắc phục khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, các hội nghị AELM đều đặt trọng tâm vào việc khắc phục và vượt qua cuộc khủng hoảng nghiêm trọng này.
Hội nghị AELM lần thứ 16 và các hội nghị sau đó tới nay đều hướng trọng tâm của APEC vào các vấn đề khắc phục và vượt qua khủng hoảng để phát triển kinh tế: 1- Tiếp tục ủng hộ vòng đàm phán Đô-ha của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chống chủ nghĩa bảo hộ và hướng tới việc đạt được Mục tiêu Bô-gô và một Khu vực Thương mại tự do toàn APEC (FTAAP); 2- Tiếp tục tăng cường hợp tác kinh tế kỹ thuật và an ninh con người; 3- Tiếp tục bàn thảo về các vấn đề thiết yếu, như an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, ứng phó với tình trạng khẩn cấp (phòng, chống thiên tai); 4- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nhất là ở góc độ các tập đoàn xuyên quốc gia cũng như việc trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME); 5- Tiếp tục thực hiện các biện pháp cải cách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của APEC, bảo đảm APEC tiếp tục là diễn đàn liên kết kinh tế, thương mại hàng đầu của khu vực, với lộ trình liên kết kinh tế khu vực của APEC sau năm 2010; 6- Thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh, chiến lược tăng trưởng sáng tạo mới của APEC, hạn chế nạn tham nhũng; 7- Thúc đẩy hợp tác và liên kết kinh tế khu vực, nhất là liên kết “thế hệ mới”, nhằm bảo đảm tính minh bạch cao trong các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực (FTA/RTA); 8- Tăng cường kết nối trong khuôn khổ APEC với tầm nhìn dài hạn, nhất là kết nối về kết cấu hạ tầng, thể chế và giữa người dân đến năm 2030; 9- Sáng kiến hợp tác APEC về các vấn đề liên quan đến đại dương và quản lý bền vững hệ sinh thái biển; 10- Xây dựng năng lực thực hiện Danh mục hàng hóa môi trường APEC (EGS) và hình thành Cơ chế đối tác công tư về EGS.
Như vậy, có thể thấy, APEC không chỉ là diễn đàn hợp tác kinh tế hàng đầu mà còn là diễn đàn về các vấn đề an ninh của khu vực và trên thế giới, phấn đấu trở thành một cộng đồng tự cường, đồng đều, gắn kết, công bằng và bền vững (RICES).
Bên cạnh những thành công trên, APEC cũng có một số hạn chế: Một là, chương trình nghị sự quá rộng và dàn trải, nên khó tập trung được nguồn lực nhằm thúc đẩy hợp tác sâu hơn và cụ thể hơn với các nội dung, nhất là nội dung kinh tế; hai là, tính kết nối, sự kế thừa của các nước chủ nhà APEC giữa các năm còn lỏng lẻo, nếu như không muốn nói là rất hạn chế (chương trình nghị sự mỗi năm chủ yếu phụ thuộc vào ý tưởng và đề xuất của nước chủ nhà năm đang cai); ba là, cơ chế hợp tác còn cồng kềnh, nhiều nhóm công tác (WG) hoạt động không hiệu quả, không gắn với tiến trình chung của APEC; bốn là, định hướng chung cho hợp tác APEC vẫn phụ thuộc và chịu sự ảnh hưởng của các quốc gia thành viên lớn, như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a,... trong khi những thành viên khác, nhất là các nước thành viên đang phát triển, ít có tiếng nói.
Quá trình Việt Nam tham gia, thực hiện các cam kết và đóng góp vào APEC
Với những nỗ lực cao độ, Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào APEC tại AELM lần thứ 6 được tổ chức tại Cu-a-la Lăm-pơ (Ma-lai-xi-a) vào tháng 11-1998. Trong suốt chặng đường gần 20 năm qua, Việt Nam luôn là một thành viên năng động và có trách nhiệm, đóng góp tích cực và hiệu quả vào sự phát triển của APEC trên mọi lĩnh vực. Sự thành công của “Năm APEC 2006” với Hội nghị AELM lần thứ 14 do Việt Nam đăng cai tổ chức đã để lại dấu ấn tốt đẹp đối với các thành viên (đặc biệt là việc xác định triển vọng dài hạn của liên kết kinh tế khu vực hướng tới hình thành FTAAP, Chương trình Hành động Hà Nội về thực hiện Mục tiêu Bô-gô và các biện pháp cải cách tổng thể, góp phần tạo nên những động lực mới cho hợp tác APEC), đánh dấu đóng góp quan trọng của Việt Nam đối với diễn đàn này.
Việt Nam đã tích cực thực hiện Chương trình Hành động tập thể (CAP), các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hóa thương mại, đầu tư; triển khai kế hoạch hành động (individual action plan, IAP) nhằm thực hiện thỏa thuận của AELM tại Bô-gô (In-đô-nê-xi-a, tháng 11-1994).
Những đóng góp của Việt Nam đối với APEC được thể hiện trên các lĩnh vực: Thứ nhất, xây dựng các nội dung hợp tác, chiến lược và kế hoạch hành động của APEC trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt các chương trình hợp tác về hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực. Thứ hai, thực hiện nghiêm túc các cam kết của APEC, nhất là cam kết về thúc đẩy tăng trưởng sáng tạo. Thứ ba, xây dựng các văn kiện nhằm thúc đẩy đồng thuận chung về những nội dung hợp tác lớn, tăng cường liên kết và mở rộng thương mại, thực hiện các Mục tiêu Bô-gô, tầm nhìn tới FTAAP. Thứ tư, chủ động đề xuất nhiều sáng kiến và triển khai chiến lược mới của APEC về cơ cấu lại nền kinh tế, ứng phó với tình trạng khẩn cấp, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực. Thứ năm, đảm nhận vị trí chủ tịch và điều hành nhiều nhóm công tác, nhất là nhóm công tác về y tế, nhóm công tác về đối phó với tình trạng khẩn cấp, về thương mại điện tử. Thứ sáu, đăng cai tổ chức nhiều hội nghị khác nhau của APEC(4). Thứ bảy, triển khai thành công khoảng hơn 80 sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kỹ thuật, y tế, đối phó với khủng bố. Thứ tám, đóng góp nhiều ý kiến vào việc cải cách APEC theo hướng phối hợp hiệu quả hơn nữa hoạt động của APEC với các tổ chức và thể chế kinh tế quốc tế, cũng như các cơ chế liên kết khu vực và tiểu khu vực hiện có, phát huy các chương trình kết nối của ASEAN. Thứ chín, chia sẻ kinh nghiệm ứng phó với tác động khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu và thúc đẩy tăng cường phối hợp chính sách và hành động giữa các nền kinh tế thành viên, nhất là đề cao nhu cầu duy trì hòa bình, ổn định để phục hồi kinh tế, hợp tác và phát triển...
Việt Nam cố gắng xác định đúng các ưu tiên tham gia APEC cho từng giai đoạn, từng lĩnh vực, như nội dung liên kết kinh tế khu vực, ứng phó với thiên tai, phát triển nguồn nhân lực,... nhất là hợp tác chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh, tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp vào các hoạt động của APEC. Đồng thời, có đánh giá toàn diện, tổng thể về những tác động có thể có của các cam kết thương mại, đầu tư của APEC, Mục tiêu Bô-gô và các nội dung thương mại, đầu tư thuộc thế hệ mới mà APEC đang thảo luận, nắm bắt kịp thời thông tin các chương trình thuận lợi hóa thương mại đầu tư của APEC... Với tinh thần đó và được sự ủng hộ của các thành viên APEC, Việt Nam quyết định đăng cai AELM lần thứ 25 và các hoạt động của APEC năm 2017. Đây được xem là đóng góp thiết thực của Việt Nam góp phần duy trì vai trò và vị thế của APEC, xây dựng một khu vực châu Á - Thái Bình Dương của thế kỷ XXI tự cường, năng động và thịnh vượng - động lực của tăng trưởng toàn cầu. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam chia sẻ với bè bạn quốc tế về “Tầm nhìn dài hạn của Việt Nam về châu Á - Thái Bình Dương”.
Tiến tới năm APEC 2017 và AELM lần thứ 25 tại Việt Nam
Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, môi trường an ninh, phát triển trong khu vực và trên thế giới có những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp với các thách thức toàn cầu gay gắt. Nền tảng kinh tế nói chung và cấu trúc thương mại, đầu tư nói riêng sẽ tiếp tục thay đổi mạnh mẽ. Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là động lực của tăng trưởng và liên kết toàn cầu, tạo nhiều cơ hội cũng như thách thức mới đối với APEC và các nền kinh tế thành viên.
Trong những thập niên tới, vai trò APEC càng không thể thiếu trong cấu trúc khu vực đang định hình. APEC đang chuyển mình căn bản với nội hàm liên kết sâu rộng, thiết thực, và là cơ chế điều phối, gắn kết các liên kết khu vực, đi liền với phát triển bền vững, cơ cấu lại, các vấn đề toàn cầu và các vấn đề thương mại, đầu tư thế hệ mới. Ý thức về một cộng đồng APEC ngày càng được tăng cường bởi lợi ích chung về duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác vì phát triển bền vững và thịnh vượng, các nền kinh tế thành viên tiếp tục coi trọng vai trò của diễn đàn trong phát triển và chính sách đối ngoại.
Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam lần thứ hai đăng cai Hội nghị AELM vào năm 2017 sẽ góp phần nâng cao vị thế quốc tế, thể hiện việc tham gia tích cực vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực, đồng thời tạo điều kiện cho việc ứng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020. Việc đăng cai tổ chức năm APEC 2017 là một trọng tâm đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, thể hiện quyết tâm của Việt Nam đối với hội nhập quốc tế sâu rộng và nâng tầm đối ngoại đa phương. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam cùng các thành viên Cộng đồng ASEAN vun đắp tình hữu nghị, hợp tác và gắn kết với các đối tác, các doanh nghiệp, bè bạn khu vực. Các hoạt động trong khuôn khổ năm APEC 2017 có ý nghĩa thiết thực tranh thủ nguồn lực quốc tế, phục vụ thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, tạo thêm nhiều cơ hội cho các vùng, miền, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp nước ta phát triển, giao lưu, quảng bá về một đất nước Việt Nam đổi mới, năng động, nhiều tiềm năng, đang trên con đường hội nhập toàn diện với tâm thế mới.
Tuy nhiên, việc đăng cai tổ chức năm APEC 2017 khác nhiều so với năm APEC 2006. Nếu như năm 2006, APEC mới tồn tại và phát triển được 16 năm, còn là một cơ chế hợp tác lỏng lẻo, nên Việt Nam hoàn toàn chủ động xây dựng nội dung các sáng kiến, các thành viên chỉ đóng góp về hình thức, thì năm 2017 chương trình nghị sự của APEC đã mở rộng hơn nhiều, về cả bề rộng (phạm vi) lẫn chiều sâu (cụ thể) do cơ chế hợp tác ngày càng được củng cố. Bên cạnh đó, nếu như năm APEC 2006, Việt Nam chỉ có “Hà Nội Action Plan” là sáng kiến chủ đạo trong đó đã được Ô-xtrây-li-a hỗ trợ rất nhiều trong quá trình xây dựng nội dung và khuyến nghị; hơn nữa, APEC ít có các nội dung nhạy cảm, bản thân các sáng kiến không phức tạp, không có tính liên kết và ảnh hưởng lẫn nhau như hiện nay, thì các sáng kiến đề xuất của năm APEC 2017 cần bám sát nội dung Chương trình nghị sự hiện tại của APEC nhằm duy trì tính kết nối và bảo đảm sự gia tăng về giá trị; hơn nữa năm APEC 2017 phải có tính kế thừa các kết quả của năm APEC 2016 và các năm APEC trước đó, không dàn trải, không đưa ra quá nhiều sáng kiến mà không có điểm nhấn dễ gây mất tập trung. Bởi vậy, những sáng kiến trong AELM lần thứ 25 cần tính đến tính liên tục giữa các năm APEC (và thực tế cho thấy nhiều sáng kiến cần sự làm việc quyết liệt trong nhiều năm), Việt Nam có thể đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này. Do vậy, chủ đề năm APEC 2017 tạm thời được dự kiến là “Năm APEC 2017 - Viễn cảnh về một cộng đồng gắn kết, năng động và bền vững hơn”. Chủ đề này mang tính xác định tương lai với khía cạnh dài hạn cho APEC, đồng thời đặt dấu ấn của Việt Nam trong năm đăng cai(5). Trên cơ sở đó, những sáng kiến của năm APEC 2017 có thể xoay quanh ba trụ cột chính trong hợp tác APEC là tự do hóa, thuận lợi hóa và xây dựng năng lực cho các thành viên đang phát triển lấy đích hướng tới là việc hoàn thành Mục tiêu Bô-gô, những lựa chọn khác chỉ là mục tiêu và viễn cảnh dài hạn.
Để chuẩn bị cho vai trò Chủ tịch APEC 2017, Việt Nam đang tích cực tập trung bàn thảo một số vấn đề, như: 1- Giúp đỡ các SME tận dụng cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hoặc các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất và thương mại quốc tế. Điều này đang được hy vọng sẽ thảo luận tại APEC Hà Nội 2017 để bảo đảm rằng các lợi ích có được từ hội nhập kinh tế quốc tế sẽ được mở ra và phân chia đồng đều cho tất cả các nước trong APEC và mọi thành phần trong cùng một nền kinh tế; 2- Các nước thành viên APEC đang và sẽ phối hợp để tìm ra biện pháp nhằm cải thiện kết nối khu vực, bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai. Việc thực hiện “Kế hoạch tổng thể và kết nối APEC”, trong đó có cả biện pháp để giải quyết vấn đề phát triển kết cấu hạ tầng và những khoảng cách kết nối khác là lĩnh vực mà các nước thành viên APEC sẽ được thúc đẩy tại Hội nghị AELM 25 tại Việt Nam; 3- APEC đang nghiên cứu chiến lược thực thi FTAAP. Đây cũng là chương trình được các thành viên APEC kỳ vọng sẽ được đưa ra tại APEC 2017. Theo dự kiến, ba ưu tiên mang tính khái quát cao cần được cân nhắc tại APEC 2017 là tăng cường hội nhập kinh tế khu vực, tăng cường tính kết nối (bao gồm cả kết nối cứng, kết nối mềm và kết nối con người) và tăng cường an ninh con người, an ninh lương thực. Ba ưu tiên này với nội hàm của nó không chỉ phù hợp với tiến trình APEC, mà còn gắn kết với lợi ích phát triển của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới(6). Bên cạnh đó cũng có một số ưu tiên khác có thể sẽ được đưa ra thảo luận tại APEC 2017, như công nghệ kỹ thuật số, kết cấu hạ tầng, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, năng lượng hạt nhân, tăng trưởng bền vững/các thành phố xanh, y tế cộng đồng,...
Trên cơ sở đó, mục tiêu tham gia của Việt Nam trong thời gian tới là: Thứ nhất, tận dụng Hội nghị AELM, thông qua các cuộc tiếp xúc thúc đẩy quan hệ song phương với các thành viên APEC, nhất là với các nước lớn. Thứ hai, tiếp xúc và kêu gọi các doanh nghiệp hàng đầu của thế giới quan tâm đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam, mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực. Thứ ba, tận dụng cơ hội các hội nghị AELM và các hội nghị Bộ trưởng để thông tin về tình hình phát triển, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thứ tư, tận dụng cơ hội và khai thác tốt tiến trình hợp tác của APEC để phục vụ lợi ích của Việt Nam trong quá trình cải cách kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Để đạt được các mục tiêu trên, phương châm tham gia của Việt Nam trong thời gian tới là chủ động trong các vấn đề Việt Nam có lợi ích, xử lý khôn khéo những vấn đề nhạy cảm, tránh ảnh hưởng tiêu cực tới các quan hệ song phương và tổ chức đoàn tham dự các hội nghị AELM gọn nhẹ, tiết kiệm và trang trọng./.
--------------------------------------------
(1) Gồm (theo thứ tự thời gian gia nhập): Ô-xtrây-li-a, Bru-nây, Ca-na-đa, In-đô-nê-xi-a, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Niu Di-lân, Phi-líp-pin, Xin-ga-po, Thái Lan, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Mê-hi-cô, Pa-pua Tân Ghi-nê, Chi-lê, Việt Nam, Nga, Pê-ru
(2) Phát biểu của đồng chí Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao tại Hội thảo “Năm APEC Việt Nam 2017: Hướng tới cộng đồng APEC năng động, tự cường và gắn kết” do Bộ Ngoại giao phối hợp với Ban Thư ký APEC và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức tại Hà Nội vào ngày 24-6-2015 (xem Bản tin Thông tấn xã Việt Nam, ngày 25-6-2015)
(3) Kể từ khi thành lập vào năm 1995 đến năm 2015, ABAC đã đưa ra nhiều đề xuất liên quan đến cải thiện môi trường kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, mở rộng thị trường vốn,...
(4) Ví dụ như Hội thảo APEC về “Đối phó với lũ lụt bất thường - Tầm nhìn mới cho các thành viên APEC” tại Đà Nẵng; Hội thảo về “Tự chứng nhận xuất xứ” tại Hà Nội vào tháng 7-2011 (xem: Đoàn Xuân Hưng: “Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đóng góp vào tăng cường liên kết kinh tế và mở rộng thương mại trong APEC”, Báo Nhân dân, ngày 9-11-2011)
(5), (6) Nguyên Cẩm Tú: “Một APEC gắn kết, năng động và bền vững hơn”, Báo Thế giới & Việt Nam, ngày 23-7 - 29-7-2015
Chỉ đạo của Thủ tướng về công trình cao tầng trong nội đô Hà Nội  (30/12/2016)
Binh chủng Tăng thiết giáp tổ chức Hội nghị tổng kết huấn luyện - đào tạo năm 2016  (30/12/2016)
Hợp tác hỗ trợ nông dân sử dụng sữa có nguồn gốc từ thực vật  (29/12/2016)
Báo chí Việt Nam 30 năm đổi mới - Những vấn đề lý luận thực tiễn  (29/12/2016)
Thủ tướng nêu 30 giải pháp tập trung thực hiện trong năm 2017  (29/12/2016)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên