Tính hai mặt của vấn đề thị trường ngân hàng năm 2015

Nguyễn Trần Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
23:43, ngày 25-05-2016

TCCSĐT - Năm 2015 chứng kiến những thành công vượt trội của kinh tế Việt Nam về tăng trưởng GDP, giữ ổn định vĩ mô, kiểm soát thị trường và hệ thống tài chính - ngân hàng, cải thiện môi trường đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế…

Góp phần làm nên những thành công này có sự nỗ lực quyết liệt, linh hoạt, đáng trân trọng của ngành ngân hàng, đặc biệt là sự cộng hưởng hệ quả hàng loạt biện pháp nổi bật: tạm dừng cấp phép thành lập ngân hàng và tổ chức tín dụng mới; nới “room” tỷ lệ sở hữu cổ phần tổ chức tài chính - tín dụng cho người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; gia tăng kiểm soát giảm thiểu quy mô, mặt trái của tình trạng sở hữu chéo và tình trạng sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ cho phép, tăng sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh ngân hàng; thúc đẩy các hoạt động sát nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng trên nguyên tắc tự nguyện và bắt buộc theo quy định của pháp luật, điều chỉnh tỷ giá, lãi suất tiền gửi bằng USD và đưa nợ xấu ngân hàng xuống dưới 3% tổng dư nợ…

Tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là nội dung quan trọng của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam đã được xác định rõ trong Quyết định số 254/QĐ-TTg, ngày 01-3-2012, của Thủ tướng Chính phủ thông qua Đề án 254 “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”; sau đó, được khẳng định lại như một nội dung hợp thành của Đề án tổng thể tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020 trong Quyết định số 339/QĐ-TTg, ngày 19-02-2013, của Thủ tướng Chính phủ.

Trong giai đoạn 2012 - 2013, có 8 ngân hàng yếu kém đã từng bước thực hiện phương án tái cơ cấu là Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Thương mại cổ phần Đệ Nhất (Ficombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Tiên Phong (TienPhongBank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Nam Việt (Navibank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Tín (TrustBank) và Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Tây (Western Bank).

Giai đoạn năm 2013 - 2014, có 5 tổ chức tín dụng đã thực hiện mua bán và sáp nhập; 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã giải thể, rút giấy phép và 4 ngân hàng thương mại Nhà nước được cổ phần hóa.

Năm 2015, tiếp tục có thêm những thương vụ mua bán và sát nhập giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB); Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank) với Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển Mê Kông (MDB); Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam (VietinBank) với Ngân hàng Thương mại cổ phần Petrolimex (PGBank); và giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) với Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam (Southern Bank).

Đặc biệt, trong năm 2015, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước đã liên tiếp mua lại 3 ngân hàng thương mại với giá 0 đồng (Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương - OceanBank, ngày 25-4-2015; Ngân hàng Thương mại cổ phần Xây dựng Việt Nam - VNBC, ngày 05-3-2015 và Ngân hàng Thương mại cổ phần Dầu khí toàn cầu - GPBank, ngày 07-7-2015)

Sau 4 năm thực hiện Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” của Ngân hàng Nhà nước, đến nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đã giảm 17 tổ chức, còn có một ngân hàng thương mại nhà nước (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam), 37 ngân hàng thương mại cổ phần (kể cả ba ngân hàng thương mại đã bị Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0đ), 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 1 ngân hàng chính sách và 1 ngân hàng hợp tác xã.

Hoạt động mua bán và sát nhập ngân hàng nói chung, trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển cả bề rộng và bề sâu, trong phạm vi quốc gia, cũng như trên phạm vi toàn cầu, khi có khủng hoảng kinh tế, cũng như vào những giai đoạn kinh tế phát triển tốt. Mua bán và sát nhập ngân hàng làm thay đổi cơ cấu sở hữu, quyền kiểm soát, điều hành, năng lực tài chính và quy mô kinh doanh, từ đó góp phần mở ra những cơ hội kinh doanh mới, tăng cường vị thế cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp; thúc đẩy làn sóng tái cấu trúc, cải thiện cơ cấu và độ mở, sự gắn kết và khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của mỗi doanh nghiệp nói riêng, của nền kinh tế nói chung. Hoạt động mua bán và sát nhập ngân hàng giúp lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Các ngân hàng thương mại tham gia hoạt động mua bán và sát nhập không chỉ có thêm cơ hội vượt qua nguy cơ bị tuyên bố phá sản, mà còn có cơ hội mở rộng quy mô, thị phần, mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, cải thiện năng lực tài chính, chi phí kinh doanh và khả năng cạnh tranh. Về mặt quốc gia, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng không chỉ nhằm lành mạnh hóa từng tổ chức tín dụng, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, sự lành mạnh và ổn định hệ thống, mà còn là điều kiện và yêu cầu cần thiết để xây dựng một số tập đoàn tài chính ngân hàng mạnh, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.

Tuy nhiên, mua bán và sát nhập ngân hàng cũng là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro và đầy trở ngại gắn với khả năng xác định đúng đắn tình hình tài chính, giá trị thương hiệu, tình trạng pháp lý và tài sản của doanh nghiệp mục tiêu; những hạn chế về hệ thống luật, tính chuyên nghiệp, cơ sở dữ liệu thông tin của các nhà tư vấn, môi giới, luật sư, ngân hàng tham gia trong hợp đồng và thủ tục xác lập giao dịch; sự xung đột về chiến lược phát triển, văn hóa công ty, chính sách quản lý, đội ngũ nhân sự, áp lực thất nghiệp và những rủi ro khác. Đặc biệt, sự khác biệt của hai bên về kỳ vọng giá trị sẽ tăng cao hậu mua bán và sát nhập; việc không công khai các khoản mục trọng yếu vào thời điểm phù hợp nhất và việc hay thay đổi các điều khoản, hoặc chậm trễ trong việc hoàn tất giao dịch do rào cản về pháp lý có thể làm nhạt nhòa những mục tiêu kỳ vọng trong mua bán và sát nhập... Nếu chuẩn bị không kỹ và quản lý quá trình mua bán và sát nhập không tốt, sẽ có thể tạo bất bình đẳng và thua thiệt quá mức cho bên yếu thế; lan truyền tin đồn thất thiệt, gây tâm lý không an tâm và ngập ngừng cho người gửi tiền; thậm chí, có thể tạo ra làn sóng rút tiền mất kiểm soát thị trường do gia tăng bột phát phản ứng bầy đàn, đổ vỡ lòng tin thị trường, hoặc bị lợi dụng “đục nước béo cò”, đầu cơ, phá hoại; thất thoát tài sản công và tham nhũng, tiêu cực khác…

Việc Ngân hàng Nhà nước mua lại các ngân hàng thương mại với giá 0đ thực chất cũng là một dạng mua bán và sát nhập đặc thù, dù có vẻ ngoài như một hoạt động “quốc hữu hóa” mà một số nước phát triển từng dùng đối với một số công ty tư nhân yếu kém, nhưng không muốn sự đổ vỡ của nó gây hệ lụy tiêu cực lan tỏa cho nền kinh tế vĩ mô kiểu đô-mi-nô… Ở Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, việc Ngân hàng Nhà nước mua lại 3 ngân hàng thương mại đó với giá 0 đồng là cần thiết để giữ ổn định vĩ mô, cũng như bảo vệ người tiêu dùng, trong bối cảnh thị trường tài chính có độ nhạy cảm cao và mức chi trả bảo hiểm tiền gửi ngân hàng thương mại thấp (không quá 50 triệu đồng/người) như hiện nay. Cái được lớn nhất và vô giá của giải pháp “cực chẳng đã” này là giữ được sự ổn định vĩ mô, không có sự hoảng loạn tâm lý đám đông nguy hiểm và làn sóng rút tiền hàng loạt dễ gây đổ vỡ toàn hệ thống thống ngân hàng thương mại với những hệ lụy khó lường khác…. Tuy nhiên, nếu kéo dài và lạm dụng giải pháp này dễ gây tâm lý ỷ lại, nguy hại cho quản lý ở từng ngân hàng cũng như cả hệ thống ngân hàng thương mại trong tương lai; đồng thời, dễ gây áp lực tăng nợ công như là hệ lụy “hậu mua lại với giá 0đ” trong thời gian tới nếu không đòi được nợ cũ và cải thiện được hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại bị mua lại này. Nói cách khác, nguy cơ “biến nợ tư thành nợ công” sẽ ngày càng đậm dần, tạo áp lực phá vỡ trần nợ công đã được Quốc hội thông qua, gây đe dọa ổn định tài chính vĩ mô tương lai của đất nước.

Để các hoạt động mua bán và sát nhập ngân hàng mang tính chủ động và tích cực, giảm thiểu nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh, thâu tóm thị trường và những hệ lụy mặt trái có thể, cần chú ý triển khai những giải pháp đồng bộ, nổi bật là:

Thứ nhất, khuyến khích phát triển các dịch vụ thông tin, môi giới và tư vấn hỗ trợ pháp lý chuyên nghiệp cho hoạt động mua bán và sát nhập và giải quyết hậu mua bán và sát nhập.

Thứ hai, bản thân các ngân hàng trong nước cần nâng cao nhận thức cơ bản về vấn đề mua bán và sát nhập; chủ động sử dụng dịch vụ của các công ty tư vấn, môi giới trong việc xác định tín nhiệm và định giá; thẩm định giá trị và hồ sơ pháp lý, thông tin về thị trường và đối tác, tránh tình trạng bị ép giá, bị lừa đảo và bị “hớ “do thiếu kỹ năng, hiểu biết và thông tin...

Thứ ba, quán triệt nguyên tắc dứt điểm, kiên quyết, đồng bộ và có tầm nhìn xa, cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát các hoạt động mua bán và sát nhập nói riêng, năng lực giám sát và cảnh báo rủi ro hệ thống sớm; xử lý dứt điểm vấn đề sở hữu chéo, khắc phục sự thiếu công khai minh bạch trong sở hữu các ngân hàng thương mại theo tinh thần Thông tư 36 do Ngân hàng Nhà nước ban hành; kiểm soát việc tuân thủ thật sự các quy định của pháp luật về tỷ lệ sở hữu của cá nhân và tổ chức trong các ngân hàng thương mại, gắn với tiến trình thoái vốn ngoài ngành của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và yêu cầu về quy mô vốn đối với mỗi ngân hàng thương mại; gắn kết yêu cầu cơ cấu lại tổ chức tín dụng với yêu cầu về xử lý nợ xấu, kiểm soát chặt chẽ phân loại nợ và trích lập rủi ro của các ngân hàng thương mại; kết hợp cơ cấu lại tổ chức tín dụng theo nguyên tắc tự nguyện với bắt buộc, sát nhập, hợp nhất tổ chức tín dụng yếu kém với nhau và mở rộng mô hình tổ chức tín dụng mạnh hợp nhất với tổ chức tín dụng yếu hơn, tăng cường vai trò can thiệp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để bảo đảm tiến trình tái cơ cấu kịp thời và hiệu quả, bảo đảm ổn định hệ thống và giữ vững an ninh tài chính - tiền tệ quốc gia trong hoạt động mua bán và sát nhập.

Thứ tư, các cơ quan chức năng cần tiếp tục hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống các văn bản pháp lý liên quan điều chỉnh hoạt động mua bán và sát nhập, như Luật Cạnh tranh; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Chứng khoán và Luật Các tổ chức tín dụng, cũng như các văn bản dưới luật, điều chỉnh hoạt động mua bán và sát nhập, hướng dẫn thủ tục triển khai mua lại, sát nhập, hợp nhất tổ chức tín dụng gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-CP, ngày 06-3-2014, của Chính phủ và Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg, ngày 15-9-2014, của Thủ Tướng Chính phủ; chú ý bổ sung, cụ thể hóa quy định pháp lý về trách nhiệm của các bên khi tham gia mua bán và sát nhập đối với quyền lợi của người lao động và cổ đông; kiểm soát độc quyền. Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các ngân hàng thương mại mạnh tích cực tham gia mua bán và sát nhập, thu nhận các ngân hàng thương mại yếu kém vì lợi ích chung. Từ thực tế cho thấy, để có nguồn lực mới thúc đẩy việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, cần “nới room” và cơ chế thuận lợi hơn, khuyến khích các tổ chức tín dụng nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua lại, sát nhập, hợp nhất với các tổ chức tín dụng trong nước yếu kém phải cơ cấu lại; đồng thời, phát triển thị trường thứ cấp, cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua bán các khoản nợ xấu nhằm thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Với tinh thần quyết liệt tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cần coi việc nới biên độ ảnh hưởng, với tổng mức sở hữu cổ phần không giới hạn của giới đầu tư nước ngoài - “room” - cho phép mở rộng và tạo áp lực buộc các tổ chức tín dụng trong nước liên kết chặt chẽ hơn với các đối tác có tiềm lực nước ngoài. Thị trường mua, bán nợ, cũng như hoạt động mua, bán doanh nghiệp - ngân hàng cũng sẽ được kích hoạt mạnh hơn. Quản lý nhà nước sẽ đậm nét và linh hoạt hơn trong quyết định tái cấu trúc và buộc các tổ chức tín dụng yếu kém phải nỗ lực lành mạnh hóa theo hướng cổ phần hóa vốn và quốc tế hóa tiêu chuẩn, chất lượng hoạt động. Những khiếm khuyết sẽ bộc lộ để sửa chữa; sự trì trệ sẽ mất dần đất sống, tạo cơ cấu tổ chức tín dụng lành mạnh, tạo sức sống mới cho nền kinh tế và người hưởng lợi trước hết sẽ là bản thân hệ thống ngân hàng thương mại và người dân.

Kỳ vọng “mở room” kích thích quá trình đẩy nhanh tái cấu trúc theo cơ chế kinh tế thị trường sẽ còn chờ thực tiễn tiếp nhận và phản hồi, cả thuận chiều và có thể trái chiều… Song, cần khẳng định, để tồn tại, phát triển trong áp lực cạnh tranh, không có cách gì hơn là phải tự đổi mới vì lợi ích ổn định vĩ mô và của người dân; khuyến khích mua bán nợ và công cụ nợ phái sinh trên thị trường thứ cấp; mở rộng khả năng cho các hoạt động mua - bán nợ xấu theo đúng giá trị và cơ chế thị trường.

Nhìn chung, quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục được thực hiện theo đúng Đề án đã được phê duyệt, trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, an toàn hệ thống tổ chức tín dụng và khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng được bảo đảm. Các ngân hàng thương mại đang đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và là đối tượng chính của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015. Chương trình cơ cấu lại hệ thống tín dụng - ngân hàng dường như thu được nhiều kết quả ấn tượng hơn cả trong ba trọng tâm tái cơ cấu thời gian qua, với những điểm nhấn đặc biệt là: Hệ thống ngân hàng thương mại đã ngày càng cải thiện được tính thanh khoản, đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ hệ thống; giảm sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và hệ thống tín dụng nói riêng, giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thương trường. Số dư tiền gửi của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước luôn cao hơn so với yêu cầu dự trữ bắt buộc. Thị trường tiền tệ đã ổn định trở lại, thanh khoản của hệ thống ngân hàng tốt hơn. Hoạt động tại thị trường liên ngân hàng đã bình thường trở lại với lãi suất liên ngân hàng, lãi suất huy động và cho vay đều giảm mạnh. Các tổ chức tín dụng đã mua một lượng lớn trái phiếu chính phủ để đầu tư và dự phòng thanh khoản.

Đặc biệt, niềm tin của người dân và thị trường vào VND và cam kết của Ngân hàng Nhà nước được củng cố và bảo đảm, không hề có hiệu tượng rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng thương mại hợp nhất, sát nhập, bị mua lại. Bên cạnh đó, xu hướng các ngân hàng thương mại nội địa giảm số lượng, gia tăng về chất lượng đã được thể hiện rõ nét, nhưng không vì thế mà quy mô thị trường và thị phần bị thu hẹp lại. Nợ xấu từng bước được giải quyết hiệu quả. Các ngân hàng cũng đã từng bước tiếp cận các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ, quản trị, minh bạch thông tin…, đồng thời, từng bước củng cố, đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình và toàn hệ thống.

Ngoài ra, một thành công khác không thể không nhắc đến đó là sự cải thiện đáng kể của hệ thống pháp lý, tạo “đường ray” thúc đẩy quá trình tái cơ cấu đi nhanh và đúng hướng, đồng thời, mở rộng “cửa” hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài các văn bản liên quan tới hoạt động của VAMC, để hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng và bảo đảm cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, lành mạnh, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản như: Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt; Nghị định số 01/2013/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam; Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg, ngày 01-8-2013, của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt; các Thông tư của Ngân hàng Nhà nước bao gồm các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro (Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, ngày 21-01-2013); kiểm soát, kiểm toán độc lập, cấp phép; quản lý mạng lưới; niêm yết cổ phiếu của các tổ chức tín dụng trên thị trường chứng khoán; ngân hàng hợp tác xã; mua, bán nợ xấu; kiểm soát đặc biệt tổ chức tín dụng,... Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã và đang khẩn trương hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp lý về thanh tra, giám sát; xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng; ủy thác, nhận ủy thác, quy định về quản lý rủi ro của các tổ chức tín dụng…

Thực tế đã ghi nhận nhiều thành công lớn, đồng thời có nhiều cơ sở để tin tưởng và kỳ vọng vào triển vọng tích cực trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, nhất là khi giải quyết tốt hơn vấn đề về nợ xấu và sở hữu chéo, nâng cấp chất lượng thể chế và trình độ, năng lực quản lý, quản trị rủi ro và giám sát an toàn hệ thống…/.