Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa ở nước ta hiện nay

Đặng Thị Bích Liên TS, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
21:47, ngày 29-06-2018

TCCS - Di sản văn hóa Việt Nam được kết tinh từ đời sống tinh thần phong phú và sức sáng tạo vô tận của các thế hệ người Việt Nam, là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Kho tàng di sản văn hóa đồ sộ đó không chỉ góp phần tạo nên một nền văn hóa Việt Nam đặc sắc mà còn đem lại những giá trị phát triển về mặt kinh tế - xã hội, cần được toàn thể chính quyền và nhân dân chung tay bảo tồn, gìn giữ cho các thế hệ mai sau.

Xã hội hóa các hoạt động là yêu cầu tự thân, đồng thời là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa

Xã hội hóa các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa được hiểu là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp cư dân trong xã hội, tự nguyện tham gia việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho phát triển kinh tế cũng như các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Nhờ thế, chúng ta có thể thu hút các nguồn lực, các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước tham gia bảo tồn bền vững kho tàng di sản văn hóa, đồng thời trực tiếp sáng tạo, cung cấp và phổ biến các sản phẩm (loại hàng hóa đặc biệt) có chất lượng cao thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa đa dạng của công chúng.

Hiện nay, trong quá trình đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển, vấn đề tôn trọng đa dạng văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là giữ gìn và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa của đất nước, ngày càng trở thành vấn đề bức thiết, cần được đặc biệt quan tâm giải quyết. Muốn “hòa nhập mà không bị hòa tan” thì bản sắc văn hóa dân tộc cần được nhận diện và được tôn trọng để chúng ta có thể vừa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại mà vẫn lưu giữ được những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam, vừa tiếp tục sáng tạo được những giá trị văn hóa mới và không ngừng bổ sung vào kho tàng di sản văn hóa dân tộc, đồng thời đưa di sản văn hóa trở thành một nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Để bảo tồn di sản văn hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cần giải quyết đồng bộ, kịp thời, chất lượng, hiệu quả nhiều nhiệm vụ và giải pháp trước mắt cũng như lâu dài; đặc biệt là cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các cấp chính quyền, các tổ chức, đoàn thể để huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, đưa sự nghiệp này thiết thực góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Ngoài ra, di sản văn hóa phải luôn gắn với con người và cộng đồng cư dân địa phương nơi nó được sáng tạo ra và hiện đang được thực hành, truyền dạy. Mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa luôn phải hướng vào việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa lành mạnh của công chúng trong xã hội. Dù có sự quản lý của Nhà nước nhưng việc tham gia của cộng đồng vào quá trình bảo tồn vẫn là điều kiện tiên quyết để các di sản văn hóa còn tồn tại cho đến ngày nay.

Trong những năm qua, kể từ khi Nghị định số 69/2008/NĐ-CP, ngày 30-5-2008, của Chính phủ “Về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường” có hiệu lực thi hành, công tác xã hội hóa trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa đã được đẩy mạnh cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật được tăng cường đã góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về tầm quan trọng và lợi ích của lĩnh vực này. Nhờ đó, nhiều hoạt động bảo tồn di sản văn hóa qua hình thức xã hội hóa đã được triển khai, huy động được sự hưởng ứng tích cực cả về nhân lực cũng như vật chất và tài chính của xã hội.

Một số kết quả đạt được trong công tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa

Trong hoạt động bảo tàng:

Chủ trương xã hội hóa hoạt động bảo tàng đã được triển khai rộng khắp và hiệu quả. Các bảo tàng trong toàn ngành đã chủ động đổi mới nội dung và hình thức hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả và phát huy tốt vai trò và chức năng của bảo tàng trong đời sống xã hội, phục vụ thiết thực, kịp thời các nhiệm vụ chính trị được giao.

Biểu hiện cụ thể nhất là sự phát triển, thành lập và đi vào hoạt động của các bảo tàng ngoài công lập, cũng như sự phối kết hợp tổ chức trưng bày, hoạt động của các bảo tàng thuộc sở hữu nhà nước và các bảo tàng, sưu tập tư nhân. Trên cả nước hiện nay đã có 36 bảo tàng ngoài công lập được ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy phép hoạt động; nhiều câu lạc bộ và hội sưu tầm cổ vật đã được thành lập ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh...

Các phong trào hiến tặng tài liệu, hiện vật cho các bảo tàng đã diễn ra sôi nổi, mang lại cho các bảo tàng một số lượng lớn tài liệu, hiện vật có giá trị, đặc biệt là những kỷ vật về cách mạng, kháng chiến. Các đơn vị đã tăng cường sự phối hợp hoạt động và tuyên truyền về bảo tàng với các tổ chức xã hội, các trường học và các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời đẩy mạnh tổ chức các cuộc trưng bày lưu động nhằm đưa sản phẩm của bảo tàng - các di sản văn hóa - đến mọi người dân trên khắp mọi miền của Tổ quốc. Sự phối kết hợp liên ngành trong việc thực hiện Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” (2008 - 2013) và Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ” (từ năm 2014 đến nay) đã thu hút được đông đảo đối tượng học sinh, sinh viên tới thăm bảo tàng, thực sự gắn hoạt động của bảo tàng với giáo dục học đường.

Trong hoạt động bảo tồn di tích:

Bên cạnh Dự án chống xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa (thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2011 - 2015), công tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích đã huy động được nhiều nguồn lực xã hội tương đương với nguồn đầu tư của Nhà nước cho công tác bảo vệ và tu bổ di tích. Các di tích được xếp hạng cả cấp quốc gia và xếp hạng di tích cấp tỉnh đã phát huy được giá trị một cách tích cực dưới nhiều mức độ khác nhau.

Nhiều di tích đã trở thành những sản phẩm du lịch - văn hóa đặc thù gắn kết vào những tuyến du lịch hấp dẫn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của một trong những ngành kinh tế mũi nhọn là du lịch, từng bước làm thay đổi cơ cấu kinh tế cho cộng đồng cư dân nơi có di tích và lễ hội, mang lại cho nhân dân những lợi ích vật chất cụ thể. Các di tích sau khi được ghi vào danh mục di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đều trở thành những địa điểm du lịch hấp dẫn, thu hút một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tăng nguồn thu từ bán vé tham quan tại di tích và những sản phẩm dịch vụ khác của từng địa phương, tạo việc làm cho nhiều người lao động. Theo số liệu năm 2017, nhiều di tích có nguồn thu lớn, như vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) 1.100 tỷ đồng; quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) 652,2 tỷ đồng; quần thể di tích Cố đô Huế 313 tỷ đồng; vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) 215 tỷ đồng; khu phố cổ Hội An (Quảng Nam) 219 tỷ đồng; khu du lịch Mỹ Sơn (Quảng Nam) 50 tỷ đồng; Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) 46 tỷ đồng; đền Ngọc Sơn (Hà Nội) 27 tỷ đồng...

Trong hoạt động bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể:

Các cộng đồng, địa phương có di sản được tôn vinh đã và đang chủ động, tích cực tổ chức các hoạt động nhằm bảo tồn di sản của địa phương mình. Nhiều trung tâm và câu lạc bộ cồng chiêng, ca trù, quan họ, hát Xoan, đờn ca tài tử... được phục hồi, hoạt động trở lại và hàng trăm câu lạc bộ mới ra đời, hoạt động độc lập bằng chính nguồn lực và khả năng của các chủ thể văn hóa và những người có tâm huyết mà không dựa vào sự hỗ trợ kinh phí từ Nhà nước. Một số câu lạc bộ đã hoạt động có uy tín, được các tổ chức nước ngoài mời tham gia liên hoan di sản văn hóa phi vật thể quốc tế. Đây là những cơ hội tốt cho các chủ thể văn hóa được giao lưu, học hỏi và tự giới thiệu với thế giới về di sản văn hóa của mình. Các lễ hội dân gian do người dân tự tổ chức cũng được phục hồi dần và hoạt động ngày càng quy củ hơn. Một số làng nghề thủ công truyền thống cũng tự tìm hướng đi cho mình...

Hiện nay, các cơ sở thực hiện xã hội hóa hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể gồm: Cơ sở nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa hoạt động dưới dạng các trung tâm nghiên cứu và cơ sở diễn xướng dân gian được tổ chức hoạt động dưới dạng các câu lạc bộ, đội, nhóm hoặc gia đình đã đáp ứng đủ các yêu cầu, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn theo quy định tại Quyết định số 1466/QĐ-TTg, ngày 10-10-2008, của Thủ tướng Chính phủ về “Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường ”. Trong những năm qua, các cơ sở này có đóng góp đáng kể vào hoạt động bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là về duy trì thực hành, truyền dạy và trình diễn tại cộng đồng.

Một số hạn chế, bất cập cần khắc phục

Bên cạnh những thành tựu nổi bật, công tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa thời gian qua vẫn còn có những hạn chế, bất cập. Nhận thức của các ngành, các cấp và của toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa của di sản văn hóa và trách nhiệm của toàn xã hội đối với di sản văn hóa đã được nâng cao nhưng chưa sâu sắc và toàn diện, chưa được cụ thể hóa bằng các biện pháp, kế hoạch và chương trình cụ thể. Nguồn lực của xã hội cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa còn rất lớn nhưng chưa thật sự được quy tụ và định hướng vào những công việc thật sự cấp bách. Trong hoạt động bảo tồn di tích, việc kêu gọi đóng góp xây dựng mới ở di tích là chủ yếu, đóng góp để bảo quản chống xuống cấp, tu bổ di tích còn ít; việc quản lý nguồn vốn xã hội hóa còn thiếu chặt chẽ nên nhiều khi việc tu bổ đã dẫn đến làm sai lệch yếu tố gốc của di tích; ở nhiều di tích, việc quản lý và sử dụng nguồn thu vẫn tồn tại rất nhiều bất cập, không được tái đầu tư để tu bổ di tích mà để sử dụng vào các mục đích khác. Trong hoạt động bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, việc xã hội hóa còn có lúc, có nơi chưa tuân thủ sự hướng dẫn và quản lý của Nhà nước dẫn đến hiện tượng lạm dụng di sản văn hóa để hành nghề mê tín dị đoan, thương mại hóa di sản văn hóa và nguy cơ làm biến đổi, biến dạng di sản văn hóa theo chiều hướng tiêu cực. Hoạt động bảo tàng chưa thu hút được sự hợp tác, tài trợ của các tổ chức kinh tế, nhất là các doanh nghiệp; hầu như vẫn chưa xuất hiện việc các doanh nghiệp, thông qua việc tài trợ cho hoạt động bảo tàng để giới thiệu, quảng bá hình ảnh của mình, còn các bảo tàng, nhờ đó, có thêm nguồn lực tài chính để tổ chức hoạt động. Một số cơ quan chủ quản của các bảo tàng chưa quan tâm, chưa cho phép hoặc chưa khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các bảo tàng mở rộng hoạt động dịch vụ văn hóa nhằm mở rộng nguồn thu để đầu tư trở lại cho các hoạt động chuyên môn. Hiện còn thiếu hành lang pháp lý về chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách thuế (giảm thuế hoặc miễn thuế hoạt động) và chính sách đãi ngộ (tôn vinh, khen thưởng) cho những tổ chức, cá nhân đã có những đóng góp to lớn đối trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Mặt khác, đội ngũ cán bộ chuyên môn tại cơ sở tuy đã được bổ sung về số lượng và tăng cường về chất lượng nhưng vẫn còn thiếu đặc biệt ở các địa phương, miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Để tăng cường hiệu quả xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa

Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa trong mọi tầng lớp nhân dân. Các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cần được kịp thời phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài ngành để nhanh chóng truyền tải những quy định của pháp luật về di sản văn hóa đến với đông đảo nhân dân, với mục tiêu ngày càng nâng cao nhận thức và thu hút được sự tham gia tích cực của toàn xã hội, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ có hiệu quả của dư luận xã hội đối với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Tổ chức hướng dẫn các địa phương, đơn vị đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Luật Di sản văn hóa và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa; một số cuộc thi tìm hiểu pháp luật về di sản văn hóa cần được phát trên sóng truyền hình, truyền thanh nhằm tuyên truyền sâu rộng nội dung của Luật; tăng cường xuất bản các ấn phẩm về Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để gửi các địa phương,... Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về di sản văn hóa ở các địa phương; chỉ đạo các địa phương chủ động trong công tác đấu tranh ngăn chặn vi phạm pháp luật về di sản văn hóa.

Thứ hai, huy động, quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo tồn di sản văn hóa.

Trước thực trạng nhiều di tích lịch sử, văn hóa đang bị xuống cấp, di sản văn hóa phi vật thể luôn có nguy cơ thất truyền, hoạt động của các bảo tàng còn kém hiệu quả, trong khi đó, khả năng kinh phí của nhà nước đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa còn hạn chế, thì việc tăng cường huy động các nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp này có ý nghĩa như một giải pháp mở đường, để từ đó, có thể triển khai các dự án bảo tồn di sản văn hóa.

Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa không đơn thuần nhằm mục đích huy động sự đóng góp tiền của từ nhân dân mà chính yếu nhằm vào việc huy động mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội vừa trực tiếp tham gia, vừa trực tiếp được hưởng thụ thành quả của những hoạt động đó. Với nhận thức ấy, xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa trước hết cần hướng tới đối tượng quan trọng nhất là nhân dân ở các địa phương. Các ngôi đình, đền, chùa... vốn là công trình tôn giáo, tín ngưỡng của các làng, do nhân dân các làng xây dựng và giữ gìn. Các kỹ thuật, bí quyết nghề thủ công truyền thống, những sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian đặc sắc... vốn là hoạt động sản xuất, sinh hoạt văn hóa tinh thần của dân làng, do dân làng sáng tạo và lưu truyền qua các thế hệ. Vì thế, các hình thức đóng góp và các cách tôn vinh, ghi công đóng góp đó của người xưa rất cần được kế thừa trong bối cảnh hiện nay. Tăng cường sự hướng dẫn về phương pháp và giám sát trong quá trình nhân dân bảo tồn di sản văn hóa, để bảo đảm sự đóng góp trí tuệ và tiền của quý báu đó của nhân dân sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho sự nghiệp này, đồng thời thỏa mãn nguyện vọng chính đáng của nhân dân là được tận hưởng thành quả do chính sự đóng góp của mình mang lại.

Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách phù hợp để tăng cường nguồn thu đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, như quản lý tốt các nguồn thu tại di tích (tiền công đức, hoa lợi do sản xuất trên đất thuộc di tích mang lại...), tạo điều kiện để mở ra các hoạt động dịch vụ tại bảo tàng, di tích, có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp tích cực đóng góp cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa (miễn giảm thuế, các biện pháp hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, quảng bá thương hiệu/hình ảnh...). Đặc biệt, cần thực hiện tốt việc động viên, khen thưởng, tôn vinh kịp thời đối với tất cả các tổ chức, cá nhân đã nhiệt tình đóng góp trí tuệ, kinh phí cho sự nghiệp này. Cùng với các hình thức động viên, khen thưởng như tặng bằng khen, giấy khen, cấp giấy chứng nhận, khắc bia ghi công, sáng tạo những vật lưu niệm..., cần chú trọng việc biểu dương/nêu gương các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp này trên các phương tiện thông tin đại chúng để vừa động viên, khích lệ, quảng bá vinh dự của các tổ chức, cá nhân đó, vừa tạo sự thu hút các lực lượng xã hội tham gia đóng góp cho sự nghiệp này.

Thứ ba, xây dựng các chương trình giáo dục về xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.

Về nội dung giáo dục, tập trung vào giáo dục pháp luật về di sản văn hóa. Căn cứ vào đối tượng mà lựa chọn nội dung thích hợp. Việc giáo dục pháp luật về di sản văn hóa phải tiến hành thường xuyên, bằng nhiều hình thức thích hợp. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL, ngày 16-01-2013, về việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, với mục đích sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên nhằm hình thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản văn hóa; rèn luyện tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập và rèn luyện; góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, tài năng của học sinh.

Một vấn đề cần lưu ý là các chương trình giáo dục về xã hội hóa cần được nghiên cứu xây dựng với nội dung đa dạng, có chiều sâu, hình thức phù hợp với các đối tượng để phổ biến đến tận người dân ở mọi địa bàn trên toàn quốc, nhất là những vấn đề đã và đang thu hút được sự quan tâm của dự luận xã hội, như tu bổ di tích, chống vi phạm di tích, bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, đa dạng hóa các hoạt động giới thiệu di sản văn hóa trong và ngoài bảo tàng... Mặt khác, cần tích cực phổ biến các mô hình xã hội hóa hoạt động tốt để làm cơ sở học tập, nhân rộng. Tôn vinh và có hình thức khen thưởng xứng đáng đối với các tổ chức, cá nhân điển hình trong các hoạt động xã hội hóa, nhằm thiết thực động viên và tạo một phong trào rộng khắp.

Thứ tư, xây dựng cơ chế khuyến khích xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.

Nhà nước khuyến khích/huy động các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp đóng góp kinh phí để tu bổ di tích, hiến tặng hiện vật cho bảo tàng nhà nước, tổ chức các hoạt động truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể... Vì vậy, cần bổ sung các quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư, hỗ trợ, giảm hoặc miễn thuế cho các hoạt động được thực hiện từ các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế. Việc khuyến khích, mở rộng xây dựng các bảo tàng hoặc các sưu tập tư nhân, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, phù hợp với truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục của các dân tộc đã mở ra cho sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa một hướng tiếp cận mới, có khả năng quy tụ các nguồn lực trong nhân dân với mục tiêu đa dạng hóa các hình thức hoạt động, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, để đạt được hiệu quả cao nhất. Trong quá trình xã hội hóa, Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng cho các hoạt động văn hóa phát triển (định hướng chứ không làm thay, nhất là không “khoán trắng” cho cộng đồng), đồng thời cần tăng cường đầu tư và tài trợ cho các hoạt động văn hóa để thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa nói chung và hoạt động bảo tồn di sản văn hóa nói riêng.

Thứ năm, nghiên cứu, ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài chính từ xã hội hóa.

Ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài chính của di tích (tiền công đức, tiền bán vé, tiền tài trợ, tiền kinh doanh dịch vụ tại di tích, bảo tàng...) theo định hướng ưu tiên sử dụng các nguồn thu từ xã hội hóa cho việc tái đầu tư.

Đối với các nguồn thu, cần có sự chỉ đạo nhất quán, minh bạch trong công tác quản lý tài chính và phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các tổ chức, cá nhân liên quan, tránh sự chồng chéo hoặc đùn đẩy trách nhiệm.

Thứ sáu, huy động sự hỗ trợ của quốc tế cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.

Trong bối cảnh đất nước đổi mới, phát triển và mở rộng hợp tác quốc tế, việc tổ chức và quản lý có hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế về bảo tồn di sản văn hóa cần được quan tâm như một trong các nguồn lực quan trọng. Thông qua các chương trình hợp tác quốc tế, chúng ta không chỉ có điều kiện đẩy mạnh việc giới thiệu, quảng bá văn hóa, đất nước và con người Việt Nam trên trường quốc tế mà còn tranh thủ được sự giúp đỡ về khoa học, kỹ thuật, tài chính cũng như kinh nghiệm từ các chuyên gia quốc tế cho các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa ở trong nước, đồng thời tạo điều kiện cho công chúng trong nước có cơ hội tiếp xúc/mở rộng hiểu biết về văn hóa/di sản văn hóa của các nước trên thế giới. /.