Phát huy dân chủ trong Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Namlà đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Từ khi ra đời, Đảng là tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Khi cách mạng thắng lợi, giành được chính quyền, Đảng trở thành Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo xây dựng xã hội mới - xã hội do nhân dân làm chủ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, trước hết Đảng phải là tấm gương thực hành dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ”(1), trong Đảng “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình” (2) Mặt khác, mỗi đảng viên bất cứ ở địa vị nào cũng phải làm gương dân chủ.
1. Vấn đề thực hiện dân chủ trong Đảng
Trong thời kỳ lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến chống xâm lược, phải hoạt động trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, Đảng đã động viên tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của mỗi đảng viên từ Trung ương đến cơ sở để tổ chức, lãnh đạo quần chúng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Lúc đó, ngoài lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, hầu như không ai nghĩ đến lợi ích cá nhân. Mọi cán bộ, đảng viên đều một lòng, một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân nên quan hệ trong Đảng là bình đẳng, đoàn kết, thống nhất. Dân chủ trong Đảng được phát huy, trở thành bài học kinh nghiệm thành công và truyền thống quý báu của Đảng ta.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, trong điều kiện xây dựng đất nước hòa bình, nhiều tổ chức đảng và đảng viên được giao đảm nhiệm những cương vị lãnh đạo, chỉ huy, quản lý trong hệ thống chính trị và bộ máy kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao..., trở thành có quyền lực. Cùng với sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, của giao lưu, hội nhập quốc tế, của chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhất là sự chưa thường xuyên giữ vững và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, sự buông lỏng quản lý, giáo dục đảng viên của tổ chức đảng, sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng của mỗi đảng viên, dẫn đến tình trạng bao biện, quan liêu, gia trưởng, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức trong nhiều tổ chức đảng và ở nhiều đảng viên, nhất là ở một số đảng viên có chức, có quyền. Ở một số nơi, ý kiến của đảng viên không giữ cương vị lãnh đạo, chỉ huy chưa được quan tâm xem xét đầy đủ, hoặc không được phản ánh lên cấp ủy cấp trên. Mặt khác, không ít đảng viên thiếu trách nhiệm, không tích cực tham gia vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Tình trạng trên dẫn đến chất lượng sinh hoạt thấp, không huy động được trí tuệ của tập thể tổ chức đảng; tính khả thi của nghị quyết không cao, thậm chí có nghị quyết phạm sai lầm; đảng viên không tham gia bàn việc, không thấu suốt và cũng không tích cực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết.
Trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng, còn nặng về chỉ thị, kế hoạch từ trên dội xuống. Trong khi đó có những chỉ thị, kế hoạch thiếu điều tra, nghiên cứu kỹ càng, không có sự tham gia ý kiến của tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở nên không sát tình hình và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Do đó, không phát huy được tính tích cực chủ động của tổ chức đảng và đảng viên trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống.
Đối với vấn đề phát huy dân chủ trong Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta từng nhận định: “Dân chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ luật không nghiêm, một số nơi mất đoàn kết nghiêm trọng… Không ít cấp ủy và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với những thông tin ngược chiều, không thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình. Còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung trong Đảng. Có những quy định trong Điều lệ Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp ủy không được chấp hành nghiêm túc. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xẩy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Trong khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng không ít”(3)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng vừa qua cũng đã nhận định: “Công tác tổ chức trên một số mặt còn yếu; chưa thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Chậm xây dựng, hoàn thiện tổ chức cơ chế giám sát trong Đảng và trong hệ thống chính trị, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên. Còn thiếu những quy chế cụ thể bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức”(4).
Nhiều tổ chức đảng có hiện tượng cấp ủy và tổ chức cấp dưới không dám phê bình thẳng thắn cấp ủy cấp trên, nhất là người đứng đầu. Trong sinh hoạt đảng, do những lý do khác nhau, nhiều đảng viên không dám nói chính kiến của mình, ngại đấu tranh, phê bình khuyết điểm của cán bộ đảng, chính quyền cấp trên và cả của đồng chí mình, né tránh các vấn đề phức tạp. Tình trạng thiếu dân chủ thường đi đôi với hiện tượng quan liêu, gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền. Một số vụ việc tham nhũng lớn vừa qua, hầu như không một vụ nào do tổ chức đảng và đảng viên tại chỗ phát hiện mà đều do đảng viên cấp dưới, quần chúng hoặc cơ quan báo chí, cơ quan pháp luật phát hiện. Điều đó cho thấy sự yếu kém về sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.
2. Những nội dung cơ bản của phát huy dân chủ trong Đảng
Từ lý luận và thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa, cũng như tình hình dân chủ trong Đảng ta vừa qua, cho thấy phát huy dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng là yêu cầu cấp bách để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nội dung cơ bản về phát huy dân chủ trong Đảng hiện nay là:
Một là, dân chủ trong xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng.
Đường lối, chủ trương là vấn đề quan trọng nhất trong lãnh đạo của Đảng. Đường lối, chủ trương đúng là nhân tố cơ bản bảo đảm cho cách mạng thắng lợi và sự vững mạnh của Đảng. Đảng cần phải huy động được trước hết là trí tuệ của toàn Đảng, tiếp đó là sự đóng góp của toàn dân vào việc xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng.
Khi nắm chính quyền, đường lối, chủ trương của Đảng được chuẩn bị theo quy trình đầy đủ hơn, cấp ủy và cơ quan chuyên trách chuẩn bị, các tổ chức đảng và đông đảo đảng viên tham gia ý kiến, nhiều đường lối, chủ trương còn được công khai tranh thủ ý kiến quần chúng, sau đó mới đưa ra các hội nghị hoặc đại hội thảo luận, quyết nghị thành nghị quyết. Trong nhiều thời kỳ cách mạng, kể cả thời kỳ đổi mới, có những vấn đề từ thực tiễn mà tổ chức đảng, và đảng viên cơ sở sáng tạo ra những cách thức mới có hiệu quả để khắc phục khó khăn, đưa cách mạng tiến lên. Trung ương Đảng đã tôn trọng, tiếp thu những sáng kiến đó, hoàn thiện thành đường lối, chủ trương chung của Đảng. Nhờ vậy, từ khi ra đời đến nay, đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng của Đảng ta đều đúng đắn; những sai lầm, khuyết điểm được nhanh chóng phát hiện và sửa chữa.
Hiện nay, nước ta là một nước chậm phát triển, đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đặt ra cần được giải quyết mà chưa có tiền lệ trên thế giới cũng như ở Việt Nam như: Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với dân chủ hóa xã hội; định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nhiều thành phần… Công tác lý luận của Đảng hiện nay chưa đủ sức làm sáng tỏ nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra. Tình hình đó càng đặt ra yêu cầu phải phát huy được tinh thần trách nhiệm, năng lực tư duy của toàn Đảng vào việc xây dựng đường lối, chủ trương lãnh đạo mọi nhiệm vụ đa dạng và phức tạp của cách mạng.
Hai là, phát huy tinh thần trách nhiệm, trí tuệ của mọi tổ chức đảng và đảng viên trong lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
Dân chủ không chỉ là quyền mà còn phải gắn với trách nhiệm của mọi đảng viên. Lực lượng lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng là các tổ chức đảng, các cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở cùng toàn thể đảng viên. Nhiệm vụ lãnh đạo này vô cùng phong phú, phức tạp bởi cuộc sống xã hội là muôn màu muôn vẻ. Không thể có một khuôn mẫu duy nhất nào, một giải pháp cố định nào cho mọi lĩnh vực, mọi lúc, mọi nơi. Phát huy dân chủ trong động viên, tổ chức đảng viên lãnh đạo quần chúng đưa đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực cuộc sống là yêu cầu tất yếu, là thể hiện dân chủ trong Đảng.
Chúng ta cần nghiêm túc tổng kết và vận dụng những bài học lịch sử về phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao trình độ trí tuệ của cán bộ, đảng viên trong hoạt động thực tiễn của các thời kỳ cách mạng trước đây vào tình hình nhiệm vụ hiện nay. Trong điều kiện đảng cầm quyền, phát huy dân chủ trong lĩnh vực này đặt ra những yêu cầu cao hơn, đa dạng hơn, đòi hỏi mọi tổ chức đảng, mọi cấp ủy, và mọi đảng viên bất kể ở cương vị nào đều phải phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao trí tuệ, quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tìm ra nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể phù hợp và thực sự nêu gương thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mỗi người, ở mỗi địa phương, đơn vị, từng ngành cũng như cả nước. Mỗi tổ chức đảng, mỗi cấp ủy và từng đảng viên phải đặt nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật, gắn bó với quần chúng, kiên quyết chống quan liêu tham nhũng trong nội bộ Đảng, trong hệ thống chính trị và trong cả xã hội thành mục tiêu họat động lãnh đạo của mình.
Một nhiệm vụ hết sức cấp bách hiện nay là Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Nếu không thường xuyên học tập nâng cao trình độ sẽ trở thành lạc hậu trước sự tiến nhanh của khoa học, chẳng những sẽ không lãnh đạo được quần chúng mà lại “chạy sau” quần chúng.
Ba là, dân chủ trong sinh hoạt đảng.
Sinh hoạt đảng là một hoạt động thường xuyên và rất quan trọng của Đảng. Mọi đường lối, chủ trương, tổ chức thực hiện, tổng kết rút ra kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng, xây dựng bản thân Đảng, đấu tranh với các thế lực chống Đảng… đều từ trong sinh hoạt đảng. Sinh hoạt dân chủ, chất lượng cao sẽ làm cho Đảng mạnh. Trong Đảng, mọi đảng viên, bất kỳ cương vị gì đều bình đẳng, không có đẳng cấp trong Đảng, không có đảng viên cấp trên, đảng viên cấp dưới. Vì thế, dân chủ trong sinh hoạt đảng là điều tất yếu và có ý nghĩa quyết định dân chủ trong toàn bộ hoạt động của Đảng ta. Kế thừa và phát triển truyền thống dân chủ nội bộ trước yêu cầu mới, Điều lệ của Đảng được các Đại hội thông qua đều quy định cụ thể nguyên tắc tập trung dân chủ cùng những nội dung cơ bản của nguyên tắc đó. Đảng cũng có những quy chế, quy định… về tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra “Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa IX” quy định trách nhiệm và quyền hạn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, bao gồm cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư; trách nhiệm và quyền hạn của Bộ Chính trị; trách nhiệm và quyền hạn của Ban Bí thư và Thường trực Ban Bí thư; trách nhiệm và quyền hạn của Tổng Bí thư. Quy chế cũng xác định chế độ làm việc và phương pháp công tác của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Các ban của Đảng cũng đều có quy chế riêng xác định chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mình. Ban Tổ chức các cấp của Đảng có nhiều hướng dẫn về tổ chức, sinh hoạt của các tổ chức đảng trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực hoạt động. Trong đó quy định rõ phải bảo đảm cho mọi đảng viên thực hiện quyền dân chủ thảo luận xây dựng đường lối, chính sách của đảng; ứng cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo; giám sát, kiểm tra hoạt động của cấp ủy, được phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức. Đảng viên được trình bày quan điểm, ý kiến của mình trong tổ chức, được bảo lưu ý kiến và kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm của Đảng. Mọi cấp ủy viên có quyền và có trách nhiệm phát biểu ý kiến, tranh luận thẳng thắn, tham gia các quyết định của cấp ủy… Đó là những quy định nhằm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng.
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng ở tất cả các cấp của Đảng là một nội dung quan trọng để phát huy dân chủ trong Đảng, làm gương cho mọi sinh hoạt trong các tổ chức của hệ thống chính trị và trong mọi sinh hoạt xã hội.
Bốn là, dân chủ trong công tác cán bộ.
Thời kỳ đổi mới, công tác cán bộ đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ mới mẻ hơn, phức tạp hơn, khó khăn hơn. Mặc dù, các Đại hội toàn quốc của Đảng đều đề ra chủ trương, giải pháp phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, nhiều hội nghị Trung ương ra nghị quyết chuyên đề về công tác cán bộ, trong đó có nhiều nội dung về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ; nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu những cơ chế, chính sách thật sự phát huy dân chủ trong việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ; dân chủ hóa công tác cán bộ còn chậm…
Để phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, cần khẳng định nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, không chỉ với cán bộ trong Đảng mà với cán bộ cả nước. Đảng quyết định chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý đối với toàn bộ đội ngũ cán bộ. Việc lựa chọn cán bộ các cấp trong Đảng càng cần thực hiện dân chủ để chọn được những đảng viên thực sự có phẩm chất chính trị, có đạo đức, có trình độ lãnh đạo, có uy tín trong tập thể đảng viên và quần chúng để giao giữ cương vị lãnh đạo trong Đảng. Đổi mới và hoàn thiện chế độ bầu cử. Trong lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ phải có sự phân công, phân cấp hợp lý, phải bảo đảm mọi quyết định về cán bộ đều có sự lãnh đạo của tổ chức đảng có thẩm quyền. Trong công tác cán bộ, tổ chức đảng thực hiện nguyên tắc tập thể quyết định theo đa số, đồng thời phát huy trách nhiệm, tôn trọng quyền hạn và ý kiến của người đứng đầu cơ quan. Đối với bản thân cán bộ, khi có những quyết định về mình cần được thông báo đầy đủ và được trình bày ý kiến.
Trong công tác cán bộ, cần đặc biệt chú ý chống những biểu hiện dân chủ hình thức, cá nhân cục bộ, quan liêu độc đoán, không xuất phát từ lợi ích chung, thành kiến, hẹp hòi, thiếu công tâm hoặc nể nang, tùy tiện, thiếu trách nhiệm với tổ chức và với cán bộ, đảng viên.
3. Một số biện pháp nhằm phát huy dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng
- Nâng cao nhận thức đúng đắn về dân chủ trong Đảng.
Mỗi tổ chức đảng và đảng viên phải nhận thức đúng đắn và thống nhất nội dung dân chủ trong Đảng. Dân chủ phải đi đôi với tập trung. Phát huy dân chủ đồng thời phải chống dân chủ cực đoan, dân chủ không tuân theo kỷ cương phép nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng điều lệ Đảng và trong mối quan hệ đồng bộ với các nguyên tắc khác như tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Cơ quan lãnh đạo phải nắm vững quyền chỉ đạo tập trung, điều hành thống nhất, đó là lãnh đạo tập thể. Tăng cường sự lãnh đạo tập thể phải trên cơ sở và đi đôi với mở rộng dân chủ. Trong sinh hoạt đảng, mọi ý kiến khác nhau cần được thảo luận dân chủ, thẳng thắn và quyết định tập thể. Ngoài việc nâng cao nhận thức, điều quyết định bảo đảm thực hiện trong thực tế những nội dung đó là phải có cơ chế đúng, có những quy định cụ thể và phải có tinh thần đấu tranh kiên quyết để thực hiện các quy chế, quy định đó. Mọi cán bộ đảng viên có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng, được chất vấn, phê bình trong phạm vi tổ chức về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; quyền được thông tin, thảo luận, nêu ý kiến riêng, được bảo lưu ý kiến và trình bày ý kiến trong tổ chức đảng. Tuy nhiên thiểu số phải phục tùng đa số, khi Đảng đã có nghị quyết thì mỗi đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết. Trong Đảng, từ Trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Các cơ quan được bầu phải chịu sự giám sát của tổ chức và đảng viên, phải báo cáo hoạt động trước tổ chức đã bầu ra mình, thường xuyên báo cáo tình hình và hoạt động của mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Xây dựng quy trình, quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể thông qua các đại hội, hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu. Hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra , giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức với tổ chức, của cá nhân với cá nhân và tổ chức, quy chế về bảo lưu ý kiến và xem xét ý kiến bảo lưu.
- Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tổng kết sự lãnh đạo trong quá trình đổi mới, Đảng ta khẳng định những thành tựu và yếu kém đều bắt nguồn từ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Vì thế, Đảng đã quyết định mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhân dịp kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng. Xây dựng Đảng phải đi đôi với chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thường xuyên trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng trong mọi tình huống. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh có phần là kết quả của việc phát huy dân chủ trong Đảng, đó cũng là biểu hiện trình độ dân chủ trong Đảng. Nhưng điều quan trọng hơn, đây là điều kiện quan trọng hàng đầu để phát huy dân chủ trong Đảng.
Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng; tăng cường dân chủ và kỷ luật, củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục bệnh quan liêu, bao biện, xa rời, coi thường quần chúng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng mà trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nâng cao chất lượng đảng viên.
Đảng viên là lực lượng xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; là lực lượng trực tiếp động viên, tổ chức, hướng dẫn quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương đó; là tấm gương để quần chúng noi theo. Cho nên, nâng cao chất lượng đảng viên là một nội dung cơ bản của xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên còn là yêu cầu của việc xây dựng và thực hiện dân chủ trong Đảng.
Đại hội X cuả Đảng nhấn mạnh các yêu cầu nâng cao chất lượng đảng viên. Về tư tưởng chính trị: phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức giữ vững và nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Về trình độ năng lực: có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ, có năng lực vận động và lãnh đạo quần chúng tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy cơ sở đảng nào chất lượng đảng viên thấp thì cơ sở đảng ở đó yếu kém, không phát huy được dân chủ trong Đảng và trong quần chúng, phong trào mọi mặt sút kém; đảng viên nào có khuyết điểm hoặc trình độ, năng lực yếu thì không những không chủ động đóng góp vào thực hiện dân chủ trong tổ chức mà còn không dám đấu tranh với các hiện tượng sai trái, mất dân chủ, cũng không thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của mình.
Muốn nâng cao chất lượng đảng viên, ngoài việc quản lý, giáo dục của tổ chức đảng, còn phải có sự tự phấn đấu, rèn luyện của đảng viên. Một hiện tượng không hiếm là khi còn là đảng viên thường thì tích cực rèn luyện, phấn đấu và là cán bộ, đảng viên tốt, nhưng khi đã có chức, có quyền thì lơi lỏng tu dưỡng, mắc bệnh quan liêu, tham nhũng, hạch sách cấp dưới và quần chúng nhân dân. Hiện tượng này cần được nhanh chóng khắc phục.
- Kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng trong Đảng cũng như trong toàn xã hội.
Từ lý luận và thực tiễn phong trào cộng sản thế giới cũng như kinh nghiệm đảng cầm quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy chục năm qua ở nước ta, Đảng ta nhận định hiện nay quan liêu, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, là một nguy cơ, thách thức đối với sự sống còn của Đảng, của cách mạng nước ta. Đây là thủ phạm chính gây ra tình trạng mất dân chủ trong Đảng. Các tổ chức đảng và đảng viên phải đi đầu, nêu gương chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống đặc quyền, đặc lợi, hách dịch, cửa quyền. Đây là những tệ nạn đang diễn ra gây bức xúc trong xã hội hiện nay. Phát huy dân chủ và chống quan liêu, tham nhũng là hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động, thúc đẩy lẫn nhau. Thực hiện tốt việc chống quan liêu, tham nhũng, chống đặc quyền, đặc lợi trong Đảng sẽ có tác động quyết định đến việc chống quan liêu, tham nhũng, thực hành dân chủ, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Vì thế, đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên phải coi đây là nhiệm vụ chính trị của mình trong công tác xây dựng Đảng.
Từ bản chất của Đảng và vai trò là Đảng cầm quyền, trước thực trạng và yêu cầu phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội hiện nay, vấn đề phát huy dân chủ trong Đảng phải được nhận thức đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp, mọi đảng viên phải tự giác thực hiện và kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng, hành vi sai trái vi phạm dân chủ trong Đảng và cả xã hội. Chỉ khi thực hiện tốt nhiệm vụ này mới giữ vững và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, lãnh đạo toàn dân thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Namxã hội chủ nghĩa.
Về cách học và vận dụng “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”  (06/03/2007)
Hội nhập quốc tế và đổi mới cơ chế thực thi, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam  (06/03/2007)
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc khi trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới  (06/03/2007)
Chính sách quản lý các vùng văn hóa ở Việt Nam hiện nay  (06/03/2007)
Nghiên cứu giới ở Việt Nam - quá trình và xu hướng  (06/03/2007)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển