Nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
TCCS - Nhân lực là vấn đề quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, hơn nữa, nhân lực là vấn đề con người, giải quyết vấn đề nhân lực không chỉ là vấn đề kinh tế, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, mà còn là vấn đề chính trị - xã hội rất tế nhị và phức tạp.
1 - Về thực trạng chất lượng lao động nông nghiệp
Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006, nông thôn cả nước đến ngày 1-7-2006 có 13.768.472 hộ, trong đó số hộ làm nông nghiệp là 9.149.118 hộ, lâm nghiệp 31.566 hộ, thủy sản 602.960 hộ. Như vậy, tổng số hộ làm nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm nông, lâm, thủy sản có 9.783.644 hộ, chiếm 71% tổng số hộ ở nông thôn(1), với tổng số dân số ở nông thôn là 61.332.200 người, chiếm 72,88% dân số cả nước(2). Số người ở độ tuổi lao động trong nông nghiệp theo nghĩa rộng (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản) đến năm 2006 là trên 24 triệu người chiếm 55,7% tổng số lao động xã hội, giảm 9,4% năm so với năm 2000(3). Với số lao động nông nghiệp còn lớn như vậy nhưng diện tích đất nông nghiệp vốn đã thấp mà trong mấy năm qua luôn bị giảm sút nên diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân 1 lao động là thấp, năm 2006 là 3.317,7 m2, nhưng phân bố không đều giữa các vùng (xem bảng 1).
|
Đất SXNN/1 lao động NN |
Đất trồng cây hằng năm/1 lao động NN |
Đất lúa/1 lao động NN |
Đất trồng cây lâu năm/1 lao động NN | |
|
Cả nước |
3.317,7 |
2.634,3 |
1.968,23 |
1.969,21 |
|
Đồng bằng sông Hồng |
1.550,47 |
1.441,18 |
1.347,44 |
417,05 |
|
Đông Bắc |
2.197,07 |
1.693,72 |
1.050,59 |
836,90 |
|
Tây Bắc |
4.302,83 |
3.970,73 |
1.505,92 |
771,21 |
|
Bắc Trung bộ |
2.266,76 |
1.978,74 |
1.292,96 |
762,66 |
|
Duyên hải Nam Trung Bộ |
2.759,46 |
2.317,68 |
1.346,71 |
1.562,28 |
|
Tây Nguyên |
6.196,88 |
3.944,40 |
1.534,56 |
4.893,47 |
|
Đông Nam Bộ |
6.264,74 |
3.911,74 |
2.815,77 |
5.993,60 |
|
Đồng bằng sông Cửu Long |
4.390,73 |
4.385,29 |
4559,76 |
1.542,64 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thực trạng này đã gây rất nhiều khó khăn cho việc phân bố và tổ chức lao động trong nông nghiệp và nông thôn, ở miền Bắc và miền Trung thì quá thừa lao động, thiếu việc làm, thời gian nông nhàn rất cao, trong khi đó ở Tây Nguyên và Nam Bộ lại thiếu lao động, nhất là vào thời vụ gieo trồng và thu hoạch.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đẩy mạnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu lao động, dân số và lao động nông thôn đã chuyển dịch sang ngành công nghiệp và dịch vụ, cả số đi khỏi địa phương và số làm công nghiệp và dịch vụ ở tại địa phương, chủ yếu là phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là một dấu hiệu tích cực, góp phần giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp và nông thôn - một xu hướng tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng nó cũng tạo ra một hiện trạng tiêu cực trong lao động nông nghiệp và nông thôn là những người lao động có sức khỏe, có kiến thức và tay nghề thì ra khỏi nông nghiệp, còn lại chủ yếu là phụ nữ. Những năm qua, lao động nông nghiệp và nông thôn có sự vận động và chuyển dịch rất lớn, số lớn ổn định ở nông thôn chuyên làm nông nghiệp, một số thoát ly khỏi nông thôn, đi xuất khẩu lao động, một số đi kiếm việc vào thời kỳ nông nhàn, một số đã vươn lên thành chủ trang trại, chủ doanh nghiệp và một số chuyên đi làm thuê quanh năm suốt tháng. Sự vận động của lao động một cách tự phát như vậy dẫn đến việc khó thống kê lao động nông nghiệp một cách chính xác. Song, chính sự vận động lao động này đã góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho đa số nông dân, thực hiện chính sách an sinh xã hội và tạo sự ổn định ở nông thôn. Từ giữa năm 2008 đến nay, tình hình khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng tới lao động nông nghiệp, nông thôn, một số lớn lao động ở các khu công nghiệp, đi lao động ở nước ngoài, kể cả lao động tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng ngay trên địa phương cũng bị mất việc, phải trở về địa phương mình làm nông nghiệp. Điều này cho thấy trình độ tay nghề của lao động khi chuyển sang công nghiệp, dịch vụ còn rất hạn chế nên càng dễ bị sa thải, đây cũng là thời cơ cho sự chọn lọc lao động có chất lượng cao trong các ngành phi nông nghiệp, đồng thời cũng cho thấy nông nghiệp, nông thôn vẫn là hậu phương vững chắc khi kinh tế có nhiều biến động bất ổn.
Chất lượng thấp của nguồn nhân lực ở nông thôn trước hết thể hiện qua trình độ học vấn. Số lao động nông nghiệp, nông thôn có trình độ trung học cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất 42%, trình độ trung học phổ thông chiếm 32,5%, trình độ tiểu học cơ sở chiếm 22,2% và không biết chữ 3,3%. Xét theo vùng, tỷ lệ mù chữ ở vùng nông thôn Đông Nam Bộ cao nhất (31,4%) trong tổng số người mù chữ, sau đó đến khu vực Tây Nguyên (20%) và Bắc Trung Bộ (13%), miền núi phía Bắc (10%)(4). Trình độ học vấn thấp tất yếu hạn chế khả năng tiếp thu kinh nghiệm, kiến thức kỹ thuật, công nghệ và nâng cao tay nghề, khả năng chọn nghề khi cần tìm nghề mới... Chất lượng lao động nông nghiệp còn thể hiện qua trình độ đào tạo. Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006, số chưa được đào tạo qua trường lớp chiếm tỷ lệ tuyệt đối: 97,65%; số qua đào tạo, có chứng chỉ, bằng cấp từ sơ cấp trở lên chiếm tỷ lệ thấp (xem bảng 2).
Những con số thống kê phần nào nói lên chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn. đi sâu vào từng đối tượng có thể thấy rõ hơn tình hình sau đây:
- Những lao động thuần nông nghiệp tuy có tay nghề cấy, gặt rất thành thạo, khi tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ mới thì lại lúng túng, tiếp thu chậm. Phong cách lao động thủ công phân tán khiến họ rất khó thích nghi với khoa học - kỹ thuật và công nghệ tiên tiến;
- Những người đã được đào tạo, có chứng chỉ sơ cấp hoặc trung cấp chủ yếu là người làm chuyên môn như thợ lái máy nông nghiệp, kỹ thuật viên về trồng trọt, chăn nuôi, thú y, thủy sản, lâm nghiệp, kế toán... Trong mỗi cơ sở sản xuất nông nghiệp cũng không đòi hỏi nhiều người làm chuyên môn như vậy, vì còn liên quan đến chế độ đào tạo và thù lao...
Bảng 2 - Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông nghiệp ở các vùng (tính đến năm 2006)
Đơn vị tính: người
|
Tổng số |
Chưa qua đào tạo |
Sơ cấp- CNKT |
Trung cấp |
Cao đẳng |
Đại học trở lên | |
|
Cả nước Tỷ lệ (%) |
21.263.892 100 |
20.764.929 97,65 |
267.739 1,26 |
185.639 0,87 |
25.114 0,12 |
20.471 0,1 |
|
ĐBS.Hồng Tỷ lệ (%) |
4.076.962 100 |
3.949.011 97,08 |
62.758 1,54 |
45.994 1,13 |
6.019 0,15 |
4.180 0,1 |
|
Đông Bắc Tỷ lệ (%) |
3.305.000 100 |
3.223.973 97,55 |
39.154 1,18 |
35.748 1,08 |
3.352 0,1 |
2.773 0,1 |
|
Tây Bắc Tỷ lệ (%) |
1.047 |
1.032.674 98,62 |
7.165 0,68 |
6.340 0,61 |
605 0,06 |
288 0,03 |
|
Bắc Trung Bộ Tỷ lệ (%) |
2.891.100 97,09 |
44.581 1,5 |
35.790 1,2 |
3.686 0,12 |
2.746 0,09 | |
|
Duyên hải nam Trung Bộ Tỷ lệ (%) |
1.472.912 98,38 |
11.851 0,79 |
9.672 0,65 |
1.579 0,11 |
1.166 0,08 | |
|
Tây Nguyên Tỷ lệ (%) |
1.629.467 97,94 |
16.528 0,99 |
14.134 0,85 |
1.708 0,1 |
1.957 0,12 | |
|
Đông Nam Bộ Tỷ lệ (%) |
1.689.915 96,59 |
39.526 2,26 |
14.978 0,86 |
2.336 0,13 |
2.835 0,16 | |
|
ĐBSC.Long Tỷ lệ (%) |
4.875.877 98,4 |
46.176 0,93 |
22.983 0,46 |
5.829 0,12 |
4.526 0,09 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- Những người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chủ yếu làm việc ở cơ quan nghiên cứu hoặc làm quản lý, nhiều khi công việc của họ không liên quan tới chuyên môn được đào tạo; số thực sự làm việc và am hiểu nghề nông không nhiều.
- Những người quản lý kinh doanh (chủ trang trại, chủ doanh nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã, chủ hộ...) tuy năng động trước cơ chế thị trường, nhưng còn hạn chế về trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý. Theo kết quả điều tra, có tới 95,3% những người phụ trách các đơn vị nông, lâm, thủy sản chưa qua đào tạo và không có bằng hoặc chứng chỉ chuyên môn, trong đó 34,5% giám đốc doanh nghiệp, 37,9% chủ nhiệm hợp tác xã, 89,9% chủ trang trại và 95,4% chủ hộ(5).
Nhìn một cách tổng thể, do lao động nông nghiệp vất vả, lợi nhuận thấp nên đa số thanh niên ở tuổi trưởng thành không còn thiết tha gắn bó với nông nghiệp, đã thoát ly khỏi nông thôn ở lại với nông nghiệp và nông thôn đa số là người già, quá tuổi lao động, là phụ nữ không có điều kiện chuyển nghề, trẻ nhỏ. Trước thực tế đó, nói về nông nghiệp, nông thôn có người đưa ra hình ảnh "nữ hóa nông nghiệp, lão hóa nông thôn".
Chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn còn được biểu hiện ở năng suất nông nghiệp một chỉ tiêu đánh giá chất lượng lao động và trình độ sử dụng lao động. Phải thừa nhận rằng, trong những năm đổi mới, năng suất các loại cây trồng không ngừng tăng, nhất là sản xuất lúa. Năng suất lúa bình quân cả năm tăng từ 42,4 tạ/ha năm 2000 lên 48,9 tạ/ ha năm 2006. Không chỉ tăng về số lượng tuyệt đối mà chất lượng cũng không ngừng tăng. Chúng ta đã sản xuất các loại lúa phục vụ xuất khẩu với khoảng 4 triệu tấn gạo chất lượng cao/năm. Trong nông nghiệp, ngành trồng trọt năm 2006 chiếm tỷ trọng gần 73,5% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp(6), trong đó lúa là cây trồng chính. Do đó, tăng năng suất lúa là yếu tố quan trọng để tăng giá trị tổng sản lượng nông nghiệp. Tăng năng suất và sản lượng lúa có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến yếu tố khoa học - kỹ thuật và tác động của năng suất lao động trong nông nghiệp. Thủy sản cũng là một ngành có sự tiến bộ vượt bậc, giá trị sản xuất theo giá thực tế năm 2000 chỉ đạt 11.761,2 tỉ VND, đến năm 2006 đã lên tới 47.446,9 tỉ VND, tức là gấp hơn 4 lần. Nếu xét theo giá so sánh của năm 1994 thì năm 2006 giá trị sản xuất gấp 3,28 lần(7). Tuy nhiên, với một lượng lao động ngành trồng trọt tới hơn 20 triệu người mà năm 2006 theo giá so sánh 1994 chỉ thu được giá trị 110.821,9 tỉ VND, tức là giá trị sản xuất của một lao động ngành trồng trọt chỉ đạt khoảng 5,5 triệu VND (theo giá thực tế thì đạt hơn 7 triệu VND), nếu xét thu nhập thuần túy thì còn thấp hơn nhiều, trong khi đó chỉ với gần 1,6 triệu lao động ngành thủy sản(8) đã tạo ra được 47.446,9 tỉ VND, tức là bình quân một lao động thủy sản đạt 30,5 triệu VND giá trị sản xuất. Thực tế trên đây cho thấy, nền nông nghiệp nước ta tuy đã có những tiến bộ, có những tiểu ngành phát triển nhanh như thủy sản, nhưng năng suất, thu nhập của người lao động chủ yếu là nông dân còn rất thấp. Nguyên nhân chính là chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
2 - Về giải pháp nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp
Để thực hiện Nghị quyết của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp có hiệu quả, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Trong nông nghiệp, nông thôn, ở miền Bắc và miền Trung thì quá thừa lao động, thiếu việc làm, thời gian nông nhàn rất cao, còn ở Tây Nguyên và Nam Bộ lại thiếu lao động, nhất là vào thời vụ gieo trồng và thu hoạch.
Thứ nhất, có tư duy và quan điểm mới, hiện thực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, coi trọng hơn nữa phát triển nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao và thân thiện với môi trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ, nhưng không xem nhẹ phát triển nông nghiệp. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia công nghiệp phát triển nhưng vẫn có một nền nông nghiệp hiện đại, đóng góp không nhỏ vào kinh tế - xã hội của đất nước, như Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển... Đối với nước ta hiện nay, mở rộng kinh tế đối ngoại hướng ra xuất khẩu là một chiến lược kinh tế phù hợp, nhưng sản xuất và xuất khẩu mặt hàng gì thì phải được cân nhắc, tính toán mang tính chiến lược, không thể khai thác mãi tài nguyên khoáng sản không thể tái tạo để bán thô ra nước ngoài mà phải khai thác tài nguyên đất đai, lao động để xuất khẩu, thu về những đồng ngoại tệ có giá trị. Tăng cường sản xuất nông nghiệp góp phần bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nông dân và xuất khẩu. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tổ chức lại nền nông nghiệp theo hướng hiện đại là tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách bền vững, là cơ sở để nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn.
Thứ hai, chủ động tổ chức lại sản xuất và lao động nông nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế với sự tác động tích cực và có hiệu quả của quản lý nhà nước. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ thì sản xuất nông nghiệp chủ yếu do nông dân tự quyết định. Tuy nhiên, sự tự chủ và tự phát của nông dân rất khó đứng vững, chưa nói là cạnh tranh thắng lợi trên thương trường đầy biến động, nên rủi ro, thua lỗ là khó tránh khỏi. Do đó, cần có sự tác động hiệu lực của quản lý nhà nước, không phải bằng mệnh lệnh hành chính mà bằng cơ chế, chính sách phù hợp. Ngay việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và cơ cấu lao động cũng chính do người dân thực hiện trên cơ sở định hướng và hỗ trợ của Nhà nước về vốn, khoa học - công nghệ, thị trường, đào tạo nhân lực... Đặc biệt, cần thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng vào thị trường nông thôn - nơi tỷ lệ rủi ro cao, tạo thuận lợi để nông dân tiếp cận với các nguồn tài chính. Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn hỗ trợ cho nông dân trong quá trình tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp một cách hiệu quả ở những vùng sản xuất hàng hóa lớn, vừa góp phần cải thiện điều kiện lao động cho nông dân, vừa tăng năng suất lao động, tạo cơ sở để chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giảm nhanh tỷ trọng lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động xã hội. Thực tế trong những năm qua, nông dân vẫn là người yếu thế và chịu nhiều thiệt thòi, nhất là trong tìm việc làm, chuyển dịch lao động, họ phải đóng quá nhiều khoản phí chính thức và phi chính thức, do đó, chúng ta vừa phải chống tham nhũng trong việc tuyển dụng và bố trí lao động bằng cơ chế công khai, minh bạch, vừa phải có sự hỗ trợ cho con em nông dân tìm việc làm.
Thứ ba, tiếp tục chấn hưng nền giáo dục nước nhà, một lĩnh vực liên quan tới gia đình nông dân chiếm trên 70% dân số và trực tiếp đào tạo nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Có nhiều ý kiến tâm huyết của các nhà giáo kỳ cựu, của giới trí thức về vấn đề cơ cấu đào tạo.
Theo điều tra của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2005, nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53/59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng. Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ đại học có 1,16 cán bộ trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1,4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó bình quân của thế giới là 100. Có thể nói, nền giáo dục - đào tạo nước ta đã nhanh chóng "đại học hóa", chỉ trong mấy năm mà đã tăng thêm khoảng 200 trường đại học, cao đẳng. Do xu thế đại học hóa như thế nên từng gia đình, từng dòng họ, từng thôn xã đều khuyến khích và chạy vạy cho con vào đại học dù quá tốn kém và chưa biết tương lai đến đâu. Trong khi đó, về phía đào tạo thì thiếu thốn đủ đường, từ giảng viên, chương trình, giáo trình đến cơ sở vật chất trang bị cho thí nghiệm, thực tập... Tất cả dẫn đến tình trạng chủ yếu là "dạy chay", "học chay".
Riêng đối với đào tạo nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn, theo chúng tôi, cần tập trung nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, nhất là bậc tiểu học và trung học cơ sở, coi trọng cả trí dục, đức dục và thể dục, không chạy theo thành tích, chấm dứt tình trạng "ngồi nhầm lớp", coi trọng học qua thực tế và thực hành về nông nghiệp. Mạnh dạn phân luồng từ trung học cơ sở, học sinh không có khả năng học tiếp lên thì chuyển sang học nghề hoặc về sản xuất nông nghiệp, bảo đảm chất lượng cho học trung học phổ thông và tiếp tục học lên cao. Đầu tư và mở rộng hơn nữa hệ đào tạo nghề ở nông thôn cả công nhân kỹ thuật và trung cấp nghề.
Thứ tư, có chiến lược và chính sách đào tạo nghề cho nông nghiệp, nông thôn một cách thiết thực và hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã trình Chính phủ Đề án tổng thể đào tạo nguồn nhân lực nông thôn. Theo đó, mục đích của đề án hướng tới đào tạo dạy nghề cho lao động nông thôn trực tiếp sản xuất nông nghiệp hiện đại; dạy nghề cho nông dân và con em nông dân để chuyển dịch cơ cấu lao động và đào tạo, nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở ở nông thôn. Đề án đặt mục tiêu từ nay đến năm 2015, trung bình mỗi năm đào tạo nghề nông nghiệp cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, nâng tỷ lệ lao động nông thôn được đào tạo từ 20% năm 2010 lên 50% vào năm 2020. Đây là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn và là một bước đi mang tính đột phá. Tuy nhiên, để đề án có tính thiết thực và mang lại hiệu quả đòi hỏi cần nghiên cứu một cách cẩn trọng, tập trung vào một số điểm sau:
- Xây dựng hệ thống đào tạo nghề quốc gia, bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ để thanh niên nông thôn có điều kiện học nghề nếu muốn chuyển dịch lao động khỏi nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống đào tạo nghề này có nhiều thành phần kinh tế tham gia, trong đó công lập giữ vai trò nòng cốt. Hệ thống trường dạy nghề được phân bố đều ở nông thôn để thuận lợi cho học viên đi học, trong trường có tổ chức dạy văn hóa ngoài giờ để thanh niên nông thôn tiếp tục học nâng cao trình độ học vấn, nhất là các em mới qua bậc trung học cơ sở. Hệ thống đào tạo nghề cần tạo sự liên thông từ sơ cấp lên trung cấp, cao đẳng và đại học để tạo cho những người có điều kiện tiếp tục học lên.
- Đầu tư cơ sở vật chất bao gồm trường lớp, trang thiết bị thực tập, thực hành hiện đại để học viên tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
- Chú ý đào tạo kiến thức và tay nghề kỹ thuật và kỹ năng quản lý, không chỉ chú trọng các loại hình chính quy mà còn đặc biệt quan tâm tới mô hình đào tạo cộng đồng, tập huấn kỹ thuật mới, tham quan các mô hình sản xuất tiên tiến, các buổi trình diễn kỹ thuật. Kết hợp lý thuyết với thực hành, coi trọng kỹ năng thực hành.
- Coi trọng đội ngũ giảng viên dạy nghề, tuyển chọn các giáo viên có kinh nghiệm và tay nghề cao, không câu nệ bằng cấp. Có chính sách thỏa đáng đối với giáo viên dạy nghề cả về lương bổng, chế độ bồi dưỡng, học tập, các chế độ nhà ở, điều kiện sinh hoạt.
- Có chính sách thỏa đáng khuyến khích dạy nghề, giảm học phí đối với người học, ưu tiên sắp xếp việc làm cho người tốt nghiệp loại xuất sắc, có tay nghề giỏi; cấp đất cho cơ sở đào tạo, miễn hoặc giảm thuế đối với cơ sở đào tạo ngoài công lập.
Thứ năm, coi trọng công tác đào tạo và sử dụng lao động chất lượng cao cho nông nghiệp, cụ thể là:
Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1,4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100. Chỉ có mấy năm mà đã tăng thêm khoảng 200 trường đại học, cao đẳng.
- Khuyến khích học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào học các trường đại học nông nghiệp với chính sách hỗ trợ học phí và cam kết làm việc trong ngành nông nghiệp sau khi tốt nghiệp ra trường;
- Có chính sách phụ cấp lương cho đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật làm việc trực tiếp tại nông thôn;
- Tăng cường lực lượng khuyến nông (ở Thái Lan 1 khuyến nông viên phụ trách 50 hộ, còn ở Việt Nam 1 khuyến nông viên phụ trách tới 1.500 hộ), tổ chức theo mô hình khuyến nông cộng đồng, nguồn thu nhập dựa vào kết quả khuyến nông;
(1) Kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2007, t 2, tr 281
(2) Kết quả Tổng điều tra đã dẫn, t 3, tr 39
(3) Niên giám Thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2007, tr 50, 51
(4) Nhân dân điện tử, ngày 3-3-2009
(5) Kết quả Tổng điều tra đã dẫn, t 1, tr 29
(6) Niên giám Thống kê đã dẫn, tr 311, 312
(7) Niên giám Thống kê đã dẫn, tr 311, 312
(8) Niên giám Thống kê đã dẫn, tr 50
Giới thiệu chính sách mới số 191  (15/12/2009)
Những kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Long  (14/12/2009)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm