Phát triển và hiện thực hóa đường lối văn hóa của Đảng ta
I- Ðề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943) của Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo là một văn kiện lịch sử quan trọng, thể hiện ý chí, nguyện vọng của cả dân tộc về việc xây dựng một nền văn hóa tiến bộ, thật sự nhân văn và dân chủ; thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, tầm nhìn chiến lược của Ðảng ta đối với sự phát triển của đất nước, đặc biệt là trên lĩnh vực văn hóa, ngay từ khi Đảng chưa nắm chính quyền.
Mặc dù mới chỉ vạch ra những nét đại cương, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, nhưng Ðề cương về văn hóa Việt Nam đã thực sự trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng, đặt nền móng cho các quan điểm, chủ trương, chính sách tiếp theo của Ðảng về văn hóa, văn nghệ.
Ðề cương ra đời, khi mà hầu hết nhân dân ta còn thất học. Thực dân Pháp, phát-xít Nhật áp đặt tròng văn hóa nô dịch nhằm phục vụ lợi ích của thực dân đế quốc. Ðội ngũ trí thức phân tán, bọn vô chính phủ không ngừng tô vẽ cho bản thân, xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xuyên tạc và hạ thấp văn hóa dân tộc, đề ra nhiều luận thuyết về các kiểu “tân văn hóa”. Nhiều trí thức chân chính rất lo lắng, khi nhận thấy tinh thần dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc đang bị mai một hoặc không được thừa nhận.
Ngày 25-2-1943, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ: Ðảng cần phái cán bộ chuyên môn về hoạt động văn hóa, để phát động một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa phát-xít thụt lùi. Ở những đô thị, như Hà Nội, Sài Gòn, Huế... phải gây dựng những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai để đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức...
Đề cương về văn hóa Việt Nam đã nêu ra hai “ức thuyết” mang tính tiền đề của văn hóa Việt Nam. Một là “Nền văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa) thắng thì văn hóa dân tộc Việt Nam nghèo nàn thấp kém”(1). Hai là, “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”(2). Đảng ta khẳng định “Căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết thứ hai trở nên sự thực”(3). Đề cương nhấn mạnh “Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”(4). Quan điểm đối với vấn đề văn hóa trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng đã thể hiện trong Đề cương về văn hóa Việt Nam: “1- Phạm vi vấn đề: Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật; 2- Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc); 3- Thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa:
a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động.
b) Không chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa.
c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”(5).
Mục tiêu, con đường, phương châm, phương pháp thực hiện cuộc cách mạng văn hóa phải nắm vững “Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này:
a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).
b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng);
c) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái với khoa học, phản tiến bộ)”(6).
Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng ta chống lại những khuynh hướng tư tưởng, triết học, văn hóa duy tâm, tiêu cực, bảo thủ trên thế giới. Về văn nghệ, Đảng ta chủ trương “làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”.
Có thể khẳng định Đề cương về văn hóa Việt Nam là bản cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là cái gốc của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Từ đó Đảng ta xây dựng đường lối hình thành và phát triển nền văn hóa mới, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ chiến tranh giải phóng và nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới. Với định hướng chính trị đúng đắn đó, văn hóa, văn nghệ đã và đang đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sau khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, nhiều tri thức, văn nghệ sĩ đã hăng hái đi theo cách mạng và kháng chiến. Họ luôn bám sát nhiệm vụ cách mạng trở thành “người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa”, họ phản ánh sắc sảo, sinh động đời sống thực tiễn cách mạng, kịp thời động viên, cổ vũ phong trào toàn dân thi đua tăng gia sản xuất, giết giặc lập công, xây dựng “đời sống mới”. Hướng vào đời sống xã hội rộng lớn với những biến cố trọng đại của dân tộc, văn hóa, văn nghệ cách mạng giai đoạn 1930 - 1975 đã ghi lại những hình ảnh không thể phai mờ của một thời kỳ lịch sử đầy gian lao thử thách, nhiều hy sinh, nhưng cũng hết sức hào hùng, vẻ vang của dân tộc ta. Với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, với hai cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại, văn hóa, văn nghệ đã sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về Tổ quốc và nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống dân tộc, vừa thấm sâu tinh thần của thời đại. Văn hóa, văn nghệ đã phát huy những giá trị cơ bản trong truyền thống của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo. Một đội ngũ đông đảo, nhiều thế hệ và không hiếm tài năng các nhà văn được tôi luyện, trưởng thành trong cách mạng và kháng chiến là thành tựu to lớn của nền văn hóa mới, hình thành kiểu nhà văn - chiến sĩ đáp ứng những đòi hỏi của thời đại cách mạng và chiến tranh. Có thể nói, cùng với sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943), với khẩu hiệu “kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến” (năm 1945), trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc (1945 - 1975), văn hóa đã thực sự trở thành một mặt trận dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II- Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, Ðảng ta luôn đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng vừa bảo đảm cho văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng hướng, vừa bảo đảm thực hiện quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo văn hóa, văn nghệ trên cơ sở phát huy trách nhiệm, tính tự giác cao của trí thức, văn nghệ sĩ. Phải quan tâm xây dựng văn hóa từ trong Ðảng, trong bộ máy nhà nước, để “Ðảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh”.
Bảy mươi năm qua, Ðảng ta luôn quan tâm gìn giữ và phát triển nền văn hóa của dân tộc. Bước vào thời kỳ đổi mới, quán triệt những tư tưởng định hướng, mở đường của Ðề cương về văn hóa Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (tháng 7-1998) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Ðảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”.
Quan điểm của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay đã khẳng định: đổi mới văn hóa không tách rời với đổi mới kinh tế và chính trị, văn hóa được coi là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực để phát triển đất nước. Hiểu văn hóa không chỉ là nhân tố nuôi dưỡng đạo đức, tinh thần xã hội mà còn là sức mạnh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, là một bước phát triển mới trong tư duy của Đảng. Nhiều nhà khoa học cho rằng nguồn gốc nghèo nàn, lạc hậu của một dân tộc nằm trong văn hóa, vì thế cần nhận thức đầy đủ hơn, sâu hơn vai trò của văn hóa và nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển đất nước. Nhân tố con người gắn liền với thế giới tinh thần phải được coi là nhân tố chủ đạo của sự phát triển. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã rất nhạy bén khi đề ra chủ trương phát triển văn hóa theo quan điểm hội nhập quốc tế, xây dựng con người và văn hóa Việt Nam trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với quốc tế; coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là phải xây dựng con người Việt Nam vừa có đức tính yêu nước, thương nòi, vừa có tinh thần đoàn kết với nhân dân thế giới; đề cao giá trị dân chủ và tôn trọng tự do sáng tạo của các văn nghệ sĩ; tiếp thu mọi thành tựu văn hóa tiên tiến của thế giới. Nghị quyết nêu lên mười lĩnh vực chúng ta cần quyết tâm thực hiện. Đó là: xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới; xây dựng môi trường văn hóa; phát triển sự nghiệp văn hóa - nghệ thuật; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; chính sách văn hóa đối với tín ngưỡng tôn giáo; mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa; củng cố và hoàn thiện thể chế văn hóa. Đến Đại hội IX (năm 2001), phát triển văn hóa được nhấn mạnh vào việc xây dựng “đời sống văn hóa”, nhất là đời sống văn hóa ở cơ sở, “nếp sống văn minh” của nhân dân ở cả nông thôn và thành thị, đẩy mạnh “giao lưu văn hóa” với bên ngoài. Có thể nói đường lối phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và theo tinh thần hội nhập quốc tế đã được Đảng kiên trì quán triệt. Không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò to lớn của văn hóa đối với quá trình đổi mới đất nước, Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khóa IX về công tác văn hóa (năm 2003) đã nhấn mạnh sự đồng bộ của một kết cấu chặt chẽ, trong đó xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần của xã hội, tạo thế “chân vạc” vững chắc cho quá trình phát triển bền vững đất nước.
Một đổi mới quan trọng trong tư duy của Đảng về văn hóa trong thời kỳ mới là thừa nhận quyền lợi cá nhân trong quyền tự do về văn hóa. Trong các đức tính của con người Việt Nam, Đảng chủ trương xây dựng con người có đức tính lao động chăm chỉ “vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội” (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII). Mặt khác, sáng tạo văn hóa không chỉ vì lợi ích tinh thần, mà còn có thể đem lại lợi ích vật chất - kinh tế cho nhân dân. Không chỉ với tư cách là nền tảng của đời sống tinh thần, văn hóa cũng tham gia quá trình sản xuất và mang giá trị vật chất - kinh tế, nhất là khi nó được đưa vào đời sống. Trong hơn hai thập niên gần đây, khi chính sách kinh tế trong văn hóa của Nhà nước ta được coi trọng thì quan niệm về vai trò của văn hóa đã thay đổi. Về điều này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII khẳng định: Phải xây dựng “Chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế”, tiến tới hòa nhập giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển. Nghị quyết Đại hội X của Đảng một lần nữa nhấn mạnh phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa xây dựng văn hóa với phát triển kinh tế. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng yêu cầu xây dựng văn hóa phải hài hòa với phát triển kinh tế.
Nhờ đổi mới tư duy, trong đó có đổi mới tư duy về văn hóa, trong gần 30 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc theo hướng nâng cao, trở nên phong phú hơn, cởi mở hơn. Sứ mệnh cao cả của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội, đối với quá trình hình thành nhân cách, trí tuệ con người mới Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vai trò của sự nghiệp văn hóa đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân được nhận thức ngày càng rõ hơn. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về văn hóa được tăng cường, các thể chế văn hóa được hoàn thiện thêm một bước. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có những văn bản quy phạm có địa vị pháp lý cao, những đề án, chiến lược quan trọng trong phát triển văn hóa đã được ban hành, phát huy hiệu lực, điều chỉnh khá toàn diện các lĩnh vực hoạt động, phục vụ hiệu quả công tác lãnh đạo chỉ đạo, điều hành của Đảng và Nhà nước, đồng thời giúp các địa phương tháo gỡ vướng mắc trong công tác lãnh đạo, quản lý, tạo sự thống nhất trên phạm vi cả nước, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, hình thành hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động văn hóa phát triển.
Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm được duy trì thường xuyên, đạt hiệu quả tốt, góp phần ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và định hướng hoạt động cho các loại hình dịch vụ văn hóa. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc được đặc biệt chú trọng. Đến nay, nước ta đã có 7 di sản được công nhận là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và biên giới, hải đảo được đẩy mạnh. Đầu tư cho xây dựng và phát huy hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở được tăng cường, đặc biệt là việc xây dựng nhà văn hóa thôn, bản ở những vùng khó khăn đã trở thành phong trào thi đua ở nhiều địa phương trong cả nước. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh, thực sự trở thành cuộc vận động văn hóa lớn có sức lan tỏa và ảnh hưởng sâu rộng, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng con người mới.
Các lĩnh vực hoạt động của sự nghiệp văn hóa và các mặt công tác khác đều có bước phát triển mới với những thành tựu đáng khích lệ. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng văn hóa - nghệ thuật tiếp tục được củng cố và nâng cấp, quy mô đào tạo được mở rộng, chất lượng đào tạo không ngừng được nâng lên, hoạt động văn hóa - nghệ thuật chuyên nghiệp và không chuyên đều có chuyển biến tích cực. Hoạt động điện ảnh tiếp tục được quan tâm đầu tư. Mạng lưới thư viện được củng cố và mở rộng đến tận xã, phường, một số thư viện được đầu tư xây dựng mới theo hướng hiện đại, ý thức pháp luật về bản quyền tác giả văn học - nghệ thuật của xã hội dần được nâng lên. Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa theo Nghị quyết số 90/CP, ngày 21-8-1997, của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa đạt được những kết quả rất có ý nghĩa. Hợp tác giao lưu văn hóa với các nước diễn ra sôi nổi, phong phú, mở rộng ở tất cả các địa bàn, tăng cường giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.
Các thành tựu đạt được trên lĩnh vực văn hóa trong nhiều năm qua khá toàn diện và có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển văn hóa của đất nước, đồng thời góp phần tiếp tục thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX và Nghị quyết Đại hội X, XI của Đảng. Đặc biệt, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hình thức sinh hoạt tư tưởng, chính trị nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước đã tạo thành một cao trào sinh hoạt văn hóa - tư tưởng, hình thành bầu không khí chính trị tích cực trong đời sống xã hội, bồi đắp tinh thần yêu nước, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa nước ta đã và đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức thường xuyên do cả điều kiện khách quan, cả nhân tố chủ quan đem lại.
Nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa chưa đầy đủ và có sự chênh lệch lớn trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng chưa toàn diện, chưa thường xuyên. Quan điểm phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng, phát triển văn hóa; gắn xây dựng văn hóa với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi văn hóa là nền tảng tinh thần, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội chưa được chú ý đúng mức. Trên thực tế chúng ta chưa có chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển công nghiệp văn hóa. Cần phải có bước đột phá trong việc cải cách thể chế văn hóa ở nước ta. Cho đến nay, khi mà công nghiệp văn hóa trên thế giới đã phát triển vượt bậc thì ở nước ta chưa chia tách công nghiệp văn hóa và sự nghiệp văn hóa. Điều này vừa bất lợi cho sự phát triển thị trường công nghiệp văn hóa, vừa bất lợi cho sự phát triển sự nghiệp văn hóa. Để tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của văn hóa nước ta, cần phải nhanh chóng tạo nên sự tác động lẫn nhau tích cực của sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa. Thực tế cho thấy, cạnh tranh văn hóa quốc tế đã trở thành một bộ phận của cạnh tranh thực lực tổng hợp quốc gia mà hình thức chủ yếu của cạnh tranh văn hóa quốc tế là cạnh tranh công nghiệp văn hóa. Điều đó buộc chúng ta phải có những suy nghĩ mới.
Tác động mặt trái của cơ chế thị trường đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã làm cho công tác quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực còn thiếu chủ động, lúng túng và bộc lộ sơ hở. Một số loại hình dịch vụ văn hóa mới, nhất là các dịch vụ qua mạng in-tơ-nét, blog, game online..., chưa có giải pháp quản lý, kiểm soát hiệu quả. Hệ thống luật pháp về văn hóa thiếu đồng bộ, thậm chí ở một số lĩnh vực vẫn chưa có điều chỉnh, một số văn bản pháp quy không còn phù hợp hoặc kém hiệu quả, hiệu lực chưa được bổ sung, thay thế kịp thời. Bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở, còn thiếu về số lượng, yếu về nghiệp vụ, chuyên môn, còn nặng tư duy bao cấp và chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, kỹ thuật còn thiếu thốn. Thị trường sản phẩm văn hóa còn phát triển tự phát. Thể chế văn hóa chưa được đổi mới đã cản trở sự phát triển của văn hóa. Đặc biệt là các chính sách văn hóa (chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa) chưa thực sự đi vào đời sống. Kết quả của công tác xã hội hóa văn hóa chưa toàn diện.
Mức đầu tư cho sáng tác các loại hình văn học - nghệ thuật còn thấp. Một số di tích lịch sử văn hóa có giá trị bị xuống cấp chưa được tu bổ kịp thời. Nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể bị mai một, chưa có biện pháp hữu hiệu để giữ gìn, bảo tồn. Tính ứng dụng của các đề tài nghiên cứu khoa học về lĩnh vực văn hóa chưa cao. Các hoạt động văn hóa - nghệ thuật chất lượng chưa cao và ít được đổi mới. Sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa giữa đô thị với các vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, miền núi, hải đảo còn nhiều cách biệt.
Sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường đã làm các mối quan hệ ở một số mặt có chiều hướng xuống cấp. Hiện tượng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội, trong đó có cả cán bộ, đảng viên chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu. Trong một bộ phận xã hội, nhất là ở lớp trẻ, tình trạng coi thường các giá trị văn hóa tốt đẹp và thuần phong mỹ tục của dân tộc có xu hướng mở rộng. Các tệ nạn xã hội chưa giảm. Hoạt động trùng tu, tôn tạo bảo tồn di sản có lúc, có nơi thực hiện chưa nghiêm gây bức xúc trong dư luận. Một số nơi, chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa chưa cao, còn có những biểu hiện phô trương, chạy theo thành tích. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội vẫn còn biểu hiện tiêu cực, hủ tục chưa được đẩy lùi. Một số bộ, ngành và địa phương thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị chưa nghiêm, tổ chức các ngày kỷ niệm và lễ hội còn mang nặng tính hình thức, phô trương, tốn kém, hiệu quả thấp...
Những yếu kém, thiếu sót trên đây không chỉ làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, mà còn có nguy cơ làm chệch hướng phát triển, làm xấu hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là một nguy cơ lớn, mà còn có thể là nguy cơ của mọi nguy cơ, đặc biệt khi chúng ta mở rộng hội nhập với thế giới.
III- Từ khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đến nay, nước ta đang ở vào thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đang ở vào giai đoạn đầu của phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiều loại mâu thuẫn xã hội cũ, mới nảy sinh, cộng với sự tác động của toàn cầu hóa đã làm cho quan niệm giá trị văn hóa của mọi người, nhất là quan niệm giá trị văn hóa truyền thống và văn hóa XHCN được chúng ta xây dựng từ năm 1945 đến nay đối mặt với thách thức gay gắt. Mạng in-tơ-nét phát triển nhanh chóng cũng làm cho sự truyền bá các loại quan niệm văn hóa mọi màu sắc mở rộng tác động chưa từng có. Vì vậy, trước làn sóng của toàn cầu hóa kinh tế, đứng trước sự thách thức của văn hóa phương Tây, làm thế nào để bảo vệ và phát huy nhân tố tích cực của văn hóa truyền thống và nền văn hóa dân tộc hiện đại để quy tụ tinh thần dân tộc, thu hút những thành quả, những tinh hoa văn hóa của thế giới nhằm đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,... là những vấn đề “nóng” để giới học thuật thảo luận nhằm rút ra những phát hiện mới, bổ sung và hoàn thiện đường lối văn hóa của Đảng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về văn hóa thường chỉ chú ý đến mặt hình thái ý thức mà chưa chú ý thích đáng đến mặt lợi ích vật chất. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và tính cấp bách của phát triển văn hóa, tự giác và chủ động hơn nữa để phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới.
Toàn Đảng, toàn dân cần nhận thức sâu sắc rằng, văn hóa tiên tiến XHCN là ngọn cờ tinh thần tư tưởng của chính đảng mác-xít, xây dựng văn hóa là bộ phận hợp thành quan trọng của toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH. Không có sự hướng dẫn tích cực của văn hóa, không có sự phong phú của thế giới tinh thần nhân dân, thì một quốc gia, một dân tộc không thể đứng vững trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Một xã hội, ở đó đời sống vật chất nghèo nàn thiếu thốn, đời sống tinh thần đơn điệu, trống rỗng, thì không thể là xã hội XHCN. Không có văn hóa XHCN phát triển phồn vinh, thì không thể có hiện đại hóa XHCN. Trong thời đại toàn cầu hóa, quốc tế hóa, kinh tế tri thức hiện nay, đổi mới thể chế văn hóa, thúc đẩy văn hóa XHCN phát triển mạnh mẽ, phồn vinh có vai trò quyết định đến thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội giàu mạnh, văn minh, đến sự kiên trì con đường XHCN. Chúng ta phải nắm bắt đúng và trúng yêu cầu mới về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xu thế mới phát triển văn hóa của thời đại, nhu cầu, kỳ vọng mới đối với đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân các dân tộc. Phát triển văn hóa trong thời đại hiện nay cần tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự do tư tưởng, chuyển biến quan niệm, nắm chắc cơ hội, trong tiến trình xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nỗ lực tối đa mở ra cục diện mới xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới.
Kiên định con đường phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đổi mới thể chế văn hóa, thúc đẩy phát triển văn hóa XHCN, phải quán triệt toàn diện tinh thần Đại hội XI của Đảng, lấy việc đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân làm xuất phát điểm và mục tiêu, lấy đổi mới làm động lực, phát triển hướng tới hiện đại hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, hướng tới tương lai, văn hóa XHCN dân tộc, khoa học, đại chúng, nâng cao tinh thần tự giác văn hóa và tự tin vào văn hóa dân tộc, nâng cao tố chất văn minh toàn dân tộc, tăng cường “thực lực mềm” văn hóa của quốc gia.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải tập trung thúc đẩy văn hóa đi sâu hơn nữa vào lòng người, không ngừng tạo ra cục diện mới để sức sống, sức sáng tạo văn hóa toàn dân tộc phát triển, đời sống văn hóa xã hội ngày càng phong phú hơn, quyền hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân được bảo đảm tốt hơn, phẩm chất đạo đức và phẩm chất văn hóa khoa học của nhân dân được nâng cao toàn diện, xây dựng nền văn hóa tiên tiến của dân tộc và có đóng góp xứng đáng cho sự phát triển văn hóa tiến bộ của nhân loại.
Để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững theo tinh thần của “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” chúng ta cần xây dựng hệ thống giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam, phát huy mạnh mẽ hơn phong tục, tập quán đạo đức tư tưởng tốt đẹp, nâng cao phẩm chất, ý thức công dân; sản phẩm văn hóa đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân, ngày càng có nhiều tác phẩm hay xuất sắc hơn; hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng bao quát toàn xã hội cơ bản được thiết lập, nỗ lực thực hiện bình đẳng trong thụ hưởng dịch vụ văn hóa; công nghiệp văn hóa trở thành một ngành công nghiệp trụ cột trong nền kinh tế quốc dân, thực lực tổng thể và sức cạnh tranh quốc tế tăng cường rõ rệt; thể chế quản lý văn hóa và cơ chế sản xuất kinh doanh sản phẩm văn hóa dồi dào sức sống, hiệu quả cao; đẩy mạnh hội nhập văn hóa lấy văn hóa dân tộc làm căn cốt, quyết định, tiếp thu tinh hoa văn hóa của thế giới, thúc đẩy văn hóa nước ta tiến ra thế giới; đội ngũ nhân tài văn hóa trình độ cao phát triển lớn mạnh. Toàn Đảng, toàn dân phải cùng phấn đấu để thực hiện những mục tiêu này, không ngừng nâng cao tính khoa học hóa của xây dựng văn hóa, tạo cơ sở vững chắc để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới.
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, cần tuân thủ phương châm quan trọng sau:
- Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần Đề cương về văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Lấy con người làm gốc, bám sát thực tiễn cuộc sống, bám sát nhân dân, phát huy vai trò tích cực, sức sáng tạo của nhân dân trong xây dựng văn hóa; phát triển văn hóa vì nhân dân, phát triển văn hóa dựa vào nhân dân, phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân, thúc đẩy phát triển toàn diện con người, đào tạo những công dân XHCN có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật.
- Ưu tiên hiệu quả xã hội trong phát triển văn hóa, bảo đảm thống nhất hữu cơ giữa hiệu quả xã hội với hiệu quả kinh tế, tuân thủ quy luật phát triển khách quan của văn hóa, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh xây dựng pháp chế văn hóa.
- Kiên định mục tiêu đổi mới theo định hướng XHCN, tập trung thúc đẩy đổi mới thể chế, cơ chế văn hóa, lấy đổi mới thúc đẩy phát triển, không ngừng giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất văn hóa, tăng cường hội nhập văn hóa, nỗ lực đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới, chủ động tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn hóa của các dân tộc trên thế giới, quyết tâm bảo vệ an ninh văn hóa quốc gia./.
-------------------------------------
(1), (2), (3), (4), (5), (6) Xem Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 316 - 321
Học tập và làm theo phong cách quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (25/11/2013)
Học tập và làm theo phong cách quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (25/11/2013)
Hàn Quốc trong cấu trúc an ninh khu vực  (25/11/2013)
Công tác bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam  (25/11/2013)
Phải đổi mới tư duy để đổi mới giáo dục  (24/11/2013)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển