Quân khu 4 nâng cao tri thức quân sự nhằm xây dựng sức mạnh nền quốc phòng toàn dân, tiềm lực thế trận chiến tranh nhân dân
Bài học lịch sử của cách mạng cho thấy, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc chỉ thực sự bền vững, chủ động ứng phó với mọi diễn biến phức tạp của tình hình, khi chúng ta có tri thức quân sự đúng đắn, sáng tạo trong hoạch định đường lối, giải pháp phù hợp. Đây là nhân tố bên trong có ý nghĩa quyết định tạo tiềm lực nhân lên sức mạnh bên ngoài, kết hợp hữu cơ giữa nội lực và ngoại lực, tận dụng mọi cơ hội, điều kiện và các yếu tố có lợi, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Tri thức quân sự là những kiến thức có hệ thống về khoa học và nghệ thuật quân sự được đúc kết qua thực tiễn các cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại của các dân tộc, luôn được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong thực tế và không ngừng phát triển qua thực tiễn bảo vệ đất nước. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão đòi hỏi chúng ta phải không ngừng học tập, sáng tạo và phát triển nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam ngang tầm nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
Mục tiêu của công tác nghiên cứu khoa học và nghệ thuật quân sự nhằm xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng quân đội ngày càng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, chủ động bảo vệ vững chắc đất nước trong thời kỳ mới. Việc phát triển tri thức quân sự vừa góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ, chiến sỹ có phẩm chất và bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự cao, vừa thúc đẩy việc ứng dụng có hiệu quả khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam lên tầm cao mới; đồng thời thúc đẩy cải tiến và hiện đại hóa vũ khí trang bị, tạo điều kiện phát triển khoa học - công nghệ quân sự, xây dựng và phát triển một nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, chủ động đối phó hiệu quả với chiến tranh công nghệ cao. Việc đẩy mạnh phát triển tri thức quân sự sẽ giúp cho công tác quản lý, chỉ huy huấn luyện bộ đội, tổ chức diễn tập sát với yêu cầu của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tăng cường quản lý vũ khí, khí tài và các phương tiện quân sự đạt hiệu quả cao hơn. Sự phát triển của tri thức quân sự là điều kiện thuận lợi cho xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận khu vực phòng thủ ở địa phương ngày càng vững chắc dù trong thời bình hay thời chiến.
Xuất phát từ nhiệm vụ được giao, lực lượng vũ trang Quân khu 4 luôn đầu tư nghiên cứu nâng cao tri thức quân sự, đổi mới tư duy thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Chúng tôi nhận thức rõ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là toàn bộ tiềm lực chính trị, tinh thần, văn hóa cốt cách của con người Việt Nam, của kinh tế, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, địa lý, lịch sử và mọi tiềm năng đất nước; là sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, truyền thống yêu nước của dân tộc. Đó là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh toàn dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân với sức mạnh an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa thế trận lòng quân và thế trận lòng dân, trong đó thế trận lòng dân là nền tảng.
Trước hết chúng tôi xác định, địa bàn Quân khu 4 có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đối với khu vực miền Trung và cả nước. Địa bàn Quân khu dài và hẹp, có chung 1.162 km đường biên giới với nước bạn Lào, có chiều dài bờ biển là 644 km; có hệ thống giao thông huyết mạch quốc gia Bắc - Nam (đường sắt, quốc lộ 1, Đường Hồ Chí Minh) đi qua và các trục đường bộ theo hướng Đông - Tây (quốc lộ 7, 8, 9, 12) sang nước bạn Lào... Với vị trí địa lý, đặc điểm địa hình có tính đặc thù, Quân khu 4 như là cầu nối giữa hai miền Nam - Bắc, dễ bị chia cắt chiến lược khi đất nước có chiến tranh. Hiện nay, các thế lực thù địch luôn coi địa bàn này là một trọng điểm chống phá trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Chúng trắng trợn xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, kích động, xúi giục, lôi kéo các phần tử cực đoan, phản động, những kẻ thoái hóa, biến chất để chống phá ta về mọi mặt. Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn, nhất là ở tuyến biên giới, tuyến ven biển, đảo, các trọng điểm, vùng Công giáo, còn diễn biến phức tạp, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, bão lũ, cháy rừng đang là những vấn đề bức xúc.
Những năm qua, lực lượng vũ trang Quân khu được xây dựng, giáo dục, huấn luyện, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và đã phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tạo cơ sở thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, trước hết là các tỉnh của nước bạn Lào có chung đường biên giới để cùng nhau xây dựng khu vực biên giới hòa bình, hữu nghị vì sự phát triển của mỗi nước. Cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang Quân khu thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, nắm chắc tình hình trên các hướng, các địa bàn trọng điểm, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp chủ động phòng ngừa và kịp thời giải quyết các vụ việc, các tình huống xảy ra. Thường xuyên rà soát, bổ sung hoàn chỉnh các kế hoạch, phương án tác chiến, bảo đảm quốc phòng - an ninh trong các tình huống; kế hoạch phòng, chống bão lụt, cháy nổ, cháy rừng, cứu hộ, cứu nạn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Duy trì thực hiện nghiêm các chế độ trực chỉ huy, trực ban, trực chiến ở các cấp; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng quân sự, công an, biên phòng, chủ động ngăn ngừa, giải quyết kịp thời các vụ việc, tình huống xảy ra, góp phần giữ vững ổn định chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc trên địa bàn.
Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân từng bước được củng cố; khả năng phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu trên cả ba tuyến: biển đảo, nội địa, biên giới được tăng cường. Nhiệm vụ xây dựng tỉnh (thành phố), huyện (thị xã) thành khu vực phòng thủ vững chắc được coi trọng và đạt được kết quả toàn diện; cơ chế 02 của Bộ Chính trị từng bước hoàn thiện và được vận hành đồng bộ từ Quân khu đến cơ sở xã, phường, thị trấn, tạo cơ sở thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương. Từng bước xây dựng, hoàn thiện các công trình chiến đấu trên các địa bàn trọng điểm và một số đồn biên phòng trên tuyến biên giới; quản lý, bảo vệ, cải tạo các hang động trên địa bàn. Đẩy mạnh xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các khu vực xung yếu, nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới như: khu kinh tế - quốc phòng Kỳ Sơn (Nghệ An), Khe Sanh - Lao Bảo (Quảng Trị), A So - A Lưới (Thừa Thiên - Huế), Mường Lát (Thanh Hóa). Phong trào “xây dựng cơ sở xã, phường, cụm tuyến an toàn làm chủ” ngày càng đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Công tác giáo dục quốc phòng được xã hội hóa, nhất là bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp. Những kết quả quan trọng trên cùng với tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm trung bình của các địa phương xấp xỉ 9%, cơ sở chính trị được củng cố, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao, thế trận lòng dân ngày càng bền vững,... là nền tảng cho tăng cường tiềm lực nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân trên địa bàn.
Kế thừa, phát huy kết quả, kinh nghiệm mà quân và dân Quân khu 4 đã giành được trong những năm qua và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, trong điều kiện nước ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thời gian tới, Quân khu tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân mà nền tảng là khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) ngày càng đi vào chiều sâu, vững chắc, tạo cơ sở thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, góp phần giữ vững thế trận quốc phòng toàn dân liên hoàn trong cả nước.
Theo đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, tạo bước chuyển biến mới về nhận thức, trách nhiệm trong các cấp, các ngành, các lực lượng vũ trang và toàn dân về hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng, trọng tâm là lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện Chỉ thị số 12/CT-TW, ngày 3-5-2007 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng - an ninh trong tình hình mới”, trước hết là bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp; đồng thời chú trọng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao ý thức, tri thức quân sự và quốc phòng cho toàn dân. Tiếp tục rà soát, đánh giá đúng thực chất của nền quốc phòng toàn dân để từng bước hoàn thiện, nâng cao tính vững chắc của thế trận phòng thủ. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị trên địa bàn; đẩy mạnh xây dựng các tỉnh (thành phố), huyện (thị xã) thành khu vực phòng thủ liên hoàn, vững chắc; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng đi vào chiều sâu.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng cơ sở an toàn, làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Tăng cường các biện pháp phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu; tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh quyết tâm tác chiến phòng thủ cơ bản; phương án, kế hoạch tác chiến các cấp từ quân khu, đến các địa phương cơ sở; kịp thời và kiên quyết đánh bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng thế trận lòng dân vững bền; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng. Tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh từ trong các chủ trương, quy hoạch, kế hoạch phát triển từng ngành, từng lĩnh vực, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng trong các lĩnh vực mà quân sự, quốc phòng - an ninh có nhu cầu như giao thông, bưu chính - viễn thông, y tế, các khu công nghiệp tập trung, khu kinh tế mở, các nông trường, lâm trường; trong thực hiện các chương trình định canh, định cư, bố trí lại dân cư ở khu vực biên giới, ven biển, hải đảo. Tăng cường quan hệ đối ngoại, trước hết với nước bạn Lào, tạo bước phát triển đồng bộ, toàn diện của các địa phương, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên địa bàn.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên, Quân khu thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, nâng cao chất lượng tổng hợp, trước hết là chất lượng chính trị, sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu, đủ khả năng làm vai trò nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc địa bàn trong tình hình mới.
Trên cơ sở định hướng của Bộ Quốc phòng về tổ chức lực lượng quân đội trong tình hình mới và xuất phát từ điều kiện cụ thể của Quân khu, tiếp tục chấn chỉnh tổ chức, biên chế phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, bảo đảm tính hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa các lực lượng, các nhiệm vụ; giữa quân số theo quy định với khả năng vũ khí, trang bị kỹ thuật được biên chế và khả năng tự bảo đảm vũ khí, trang bị của các địa phương.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ, chỉ huy các cấp làm then chốt. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, trước hết là vững mạnh về chính trị và nâng cao kiến thức, trình độ tổ chức chỉ huy, năng lực thực hành của đội ngũ chỉ huy các cấp, nắm vững chức trách, nhiệm vụ chuyên môn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tạo bước chuyển biến mới về nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và hành động cách mạng của cán bộ, chiến sỹ, bảo đảm lực lượng vũ trang Quân khu luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện quân sự sát với đặc điểm địa bàn, tình hình nhiệm vụ chiến đấu, cách đánh của ta, giỏi tác chiến bằng vũ khí, kỹ thuật. Trong huấn luyện, bám sát phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu cho các lực lượng theo yêu cầu nhiệm vụ, nhất là các đơn vị làm nhiệm vụ đánh địch trên địa bàn rừng núi, các đơn vị đặc nhiệm. Kết hợp vận dụng những kiến thức quân sự hiện đại với kinh nghiệm truyền thống, phương pháp tác chiến theo nghệ thuật quân sự Việt Nam; phòng, chống và đánh địch trong mọi tình huống, kể cả khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh. Chú trọng huấn luyện bộ đội khả năng cơ động nhanh, đánh giỏi khi chiến đấu độc lập, phân đội nhỏ trên từng địa hình, trong khu vực tác chiến cũng như khi tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng.
Kết hợp huấn luyện với tổ chức thực hành diễn tập của các cấp; gắn huấn luyện của các đơn vị chủ lực với yêu cầu xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), huyện (thị xã) với xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu; nâng cao khả năng và trình độ phối hợp, hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và phối hợp hoạt động có hiệu quả với lực lượng công an, biên phòng các địa phương.
Bên cạnh lực lượng thường trực, Quân khu đẩy mạnh xây dựng, quản lý, huấn luyện lực lượng dự bị động viên có trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, khả năng huy động nhanh, kịp thời bổ sung cho các đơn vị quân đội khi có nhu cầu. Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “vững mạnh, rộng khắp”, duy trì lực lượng dân quân tự vệ đạt tỷ lệ từ 1,5% đến 1,8% so với số dân, có cơ cấu cân đối giữa lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi, ưu tiên những địa bàn trọng điểm, vùng Công giáo, vùng dân tộc thiểu số; đồng thời, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự, nâng cao chất lượng tổng hợp, trước hết là chất lượng chính trị, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, trình độ sẵn sàng chiến đấu, đủ sức làm lực lượng nòng cốt bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Tiếp tục nghiên cứu nâng cao tri thức quân sự, đổi mới tư duy về nhiệm vụ an ninh - quốc phòng cho cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang Quân khu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược cả trước mắt và lâu dài. Từ tri thức quân sự đó, Quân khu sẽ tiếp tục nghiên cứu vận dụng và thực hiện đồng bộ các giải pháp nói trên. Đây là nhân tố quyết định nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang Quân khu; bảo đảm cho lực lượng vũ trang Quân khu tiếp tục làm tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân liên hoàn, vững chắc; sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc địa bàn, góp phần cùng cả nước xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
- Chính sách công nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ giữa các nền kinh tế lớn và hàm ý cho công tác ngoại giao kinh tế của Việt Nam
- Phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ trương xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện ở Việt Nam
- Chuyển đổi xanh: Từ nhận thức đến giải pháp thực hiện
- Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trong Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
- Chính sách xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh” của Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á: Một số nhận diện và hàm ý chính sách
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm