TCCS - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nền kinh tế, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trong quá trình thực hiện, cần phải có quỹ đất nhất định của nông nghiệp chuyển sang phục vụ công nghiệp, kèm theo là những vấn đề "hậu chuyển dịch". Làm thế nào để vừa thực hiện thành công công nghiệp hóa, vừa phát triển tốt nông nghiệp đóng góp vào sự tăng trưởng GDP của đất nước hiện là vấn đề được nhiều nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học đang quan tâm.

Thành tựu phát triển nông nghiệp

Giai đoạn 1980 - 1985, nông nghiệp cả nước cơ bản hoàn thành hợp tác hóa với 126.000 hợp tác xã, thu hút 65,6% tổng số hộ nông dân vào làm ăn tập thể. Tuy nhiên, mô hình này không kích thích được nhiệt tình của người lao động, chưa bảo đảm được 50% thu nhập cho xã viên, trong khi họ đã thực hiện tốt nghĩa vụ, đóng góp cho Nhà nước. Mức tăng trưởng nông nghiệp luôn thấp, chỉ đạt bình quân 1,9%/năm, cán cân thương mại luôn thâm hụt, đời sống nhân dân khó khăn. Sản lượng lương thực năm 1980 chỉ đạt 13,4 triệu tấn so với mức kế hoạch là 21 triệu tấn, đất nước phải nhập khẩu 1,6 triệu tấn lương thực. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng nhấn mạnh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Ngày 13-1-1981, Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW về mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị đánh dấu bước đột phá tư duy kinh tế, thúc đẩy quá trình đổi mới nông nghiệp, sản lượng lúa tăng 27%.

Giai đoạn 1986 - 1990, giai đoạn đổi mới chính thức, vượt qua đói kém. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng với tinh thần đổi mới thể chế và chính sách kinh tế, công nhận sự tồn tại và vai trò của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Khu vực kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, trước hết ở lĩnh vực nông nghiệp, bán buôn và bán lẻ, sau đó mở rộng ra các ngành công nghiệp và dịch vụ. Ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý nông nghiệp. Đây là quyết sách có tác dụng trực tiếp và sâu sắc, tạo những chuyển biến căn bản và sâu rộng trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Thực chất, đây là một bước mới về điều chỉnh quan hệ sản xuất, chủ thể quản lý từ hợp tác xã đã chuyển sang hộ gia đình, quan hệ quản lý tư liệu sản xuất và phân phối sản phẩm thay đổi. Hộ được hưởng quyền quản lý đất đai và các tư liệu sản xuất chính, được phân phối sản phẩm trực tiếp từ kết quả sản xuất, bảo đảm được hưởng 40% thu nhập. Trong giai đoạn 1988 - 1991, diện tích gieo trồng lúa tăng 10,06%, sản lượng lúa từ 17 triệu tấn tăng lên 19,6 triệu tấn. Năm 1989, Việt Nam trở lại thị trường xuất khẩu gạo sau hơn 40 năm vắng bóng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chỉ rõ: "Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội". Văn kiện Đại hội đã đề ra khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; chủ trương phá vỡ thế độc canh cây lúa, giao quyền sở hữu các tư liệu sản xuất, quyền sử dụng đất lâu dài cho nông hộ, mở rộng thị trường lao động cho hộ nông dân, khẳng định vị trí các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và tiếp thêm tài nguyên vốn, kiến thức khoa học cho sản xuất nông nghiệp. Luật Đất đai cũng được ban hành vào năm 1991, theo đó hộ gia đình được giao đất để sử dụng từ 20 đến 50 năm tùy theo loại, các hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài. Ngày 2-3-1993, Chính phủ ra Nghị định số 13-CP về công tác khuyến nông để chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân, và Nghị định số 14-CP quy định chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, hình thành vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, thừa nhận kinh tế trang trại như kinh tế hộ hàng hóa với quy mô lớn, trình độ cao hơn. Phát triển nông nghiệp tăng bình quân 4,3%/năm. Tổng sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 35,64 triệu tấn (năm 2000). Nông nghiệp phát triển theo xu thế sản xuất hàng hóa.

Giai đoạn bắt đầu phát triển theo chiều sâu, tăng thu nhập (2000 - 2005). Năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị Quyết số 09-CP định hướng các nội dung để tăng khả năng cạnh tranh của nông, lâm sản, mở rộng thị trường. Năm 2001, Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 80-CP về liên kết theo hợp đồng giữa người sản xuất và các doanh nghiệp, nhằm khắc phục tình trạng chia cắt giữa sản xuất, thu mua, chế biến và thị trường. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra nhiệm vụ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch rõ rệt, mặc dù diện tích lúa giảm 180.000 ha, nhưng sản lượng thu hoạch từ 32,5 triệu tấn trong năm 2000 tăng gần 36 triệu tấn vào năm 2005. Xuất khẩu nông sản năm 2005 đạt kỷ lục 5,8 tỉ USD (tăng trưởng 29%). Tính riêng giai đoạn 2000 - 2007, nông nghiệp Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 5,24%/năm về giá trị tổng sản lượng và 3,71%/ năm về giá trị gia tăng.

Chuyển đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế

Tổng diện tích đất sản xuất lúa được chuyển đổi mục đích sử dụng ở giai đoạn 2000 - 2005 là 463,3 ngàn héc-ta. Trong đó, chuyển sang đất phi nông nghiệp 105 ngàn héc-ta, chuyển trong nội bộ đất nông nghiệp 359,3 ngàn héc-ta (220 ngàn héc-ta chuyển sang nuôi trồng thủy sản).

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá trị thu nhập trên mỗi héc-ta đất lúa sau khi chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản cao hơn 4 đến 7 lần. Tương tự, chuyển sang trồng rau, hoa chất lượng cao cho thu nhập từ 300 đến 700 triệu đồng/ha/năm; chuyển sang trồng cây ăn quả đạt thu nhập từ 200 đến 300 triệu đồng/ha/năm. Phải thừa nhận rằng, thực tế đất dùng để đầu tư cho khu công nghiệp, dịch vụ đã mang lại giá trị lớn hơn gấp nhiều lần khi làm thuần nông.

Nhưng, diện tích đất trồng lúa giảm đi sẽ ảnh hưởng to lớn đến an ninh lương thực trong một nước đã có trên 86 triệu dân. Ô nhiễm từ các khu công nghiệp tác động đến sức khỏe cộng đồng, ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên đất, nước; diện tích đất bị suy thoái, bị sa mạc hóa sẽ gia tăng nếu không có những biện pháp bảo vệ môi trường một cách hệ thống. Theo điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trung bình mỗi héc-ta đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của 10 lao động. An sinh xã hội vùng trồng lúa phải được xem xét. Từ những thực tiễn trên, vấn đề đặt ra là:

Thứ nhất, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhất thiết phải sử dụng đất (trong đó có cả đất nông nghiệp) phục vụ cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, vì nó nhanh chóng đạt tăng trưởng kinh tế cao cho đất nước. Nhu cầu đất dành cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang và phát triển đô thị khá lớn. Công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp phải hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả và hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Thứ hai, trong chuyển đổi đất nông nghiệp, vấn đề "nóng" nhất là việc chuyển đổi đất lúa. Việc chuyển đổi đất nông nghiệp nói chung, đất lúa nói riêng cần có những chính sách thích hợp dựa vào lợi thế từng khu vực và ứng dụng tốt những thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất, tăng năng suất cây trồng để bảo đảm an ninh lương thực bù đắp cho phần đất đã chuyển mục đích sử dụng.

Giải pháp cho việc chuyển dịch và sử dụng đất nông nghiệp

Một là, đất lúa là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế được và có ý nghĩa quyết định đến an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt lẫn lâu dài, là cơ sở để ổn định, phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, khi thực hiện quy hoạch đất lúa nói riêng và đất nông nghiệp nói chung phải gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với quy hoạch các vùng, các ngành. Phần đất nông nghiệp còn lại phải ứng dụng triệt để khoa học kỹ thuật mới vào nó để đem lại năng suất cao.

Bài học sản xuất lúa giai đoạn 1986 - 2008 cho thấy, nhờ làm tốt công tác thủy lợi nên diện tích gieo trồng lúa tăng 30%, nhưng sản lượng thóc tăng 142% (trung bình tăng 1,03 triệu tấn thóc/năm). Năng suất đã đạt cao nhất trong các nước ASEAN (5,2 tấn/ha vào năm 2009). Năng suất lúa là yếu tố cơ bản cho phép việc điều chỉnh mục đích sử dụng diện tích lúa.

Các giải pháp tăng năng suất lúa xét về khía cạnh khoa học thuần túy đã được tổng kết tại Hội nghị Di truyền quốc tế về lúa tại Ma-ni-la (Phi-lip-pin) vào tháng 11-2009 như sau:

- Ảnh hưởng di truyền của năng suất và ưu thế lai được khảo sát trên cơ sở bản đồ di truyền chi tiết (khoảng cách giữa 2 chỉ thị phân tử: 0,35 cm) với kỹ thuật đọc trình tự mới nhất.

- Xây dựng các quần thể con lai đặc biệt để nghiên cứu 16 vị trí trên nhiễm sắc thể (16 loci) quy định năng suất và ảnh hưởng ưu thế lai.

- Xác định hệ thống điều hòa gien giữa nguồn và sức chứa vì mục tiêu năng suất.

Người ta kết luận rằng, khả năng năng suất lúa lai tăng so với lúa thuần khoảng 15% - 20%. Khả năng sử dụng công nghệ sinh học tạo giống lúa quang hợp theo chu trình C4 tăng năng suất hơn 40% (có nghĩa là năng suất tối đa sẽ đạt 12 - 16 tấn /ha). Bên cạnh đó, việc cải tiến kỹ thuật bón phân làm gia tăng hiệu quả sử dụng phân đạm từ 40% hiện nay lên 70% trong tương lai, tưới tiết kiệm nước và cộng thêm các giải pháp kỹ thuật đồng bộ khác sẽ góp phần quan trọng vào việc giảm giá thành.

Theo nghiên cứu của Cục Trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Chính phủ, có 3 phương án quy hoạch diện tích lúa đến năm 2030 với diện tích canh tác lúa còn 3,5 - 3,8 triệu héc-ta; diện tích gieo trồng 6,7 - 6,8 triệu héc-ta; năng suất lúa phải đạt được là 6,2 tấn/ha, để có sản lượng 41 - 43 triệu tấn thóc/năm theo mục tiêu phát triển của đất nước. Để đạt được mục tiêu này, việc tăng năng suất cây trồng phải quan tâm đầy đủ các yếu tố chủ yếu như: giống, tưới tiêu, phân bón, quản lý dịch hại, giảm tổn thất sau thu hoạch... Không có yếu tố nào được xem nhẹ.

Hai là, quy hoạch sử dụng đất lúa phải gắn với thực hiện các chính sách tài chính hỗ trợ cho người sản xuất. Ưu tiên hàng đầu là tổ chức lại sản xuất trên hiện trạng nền sản xuất nhỏ, diện tích manh mún, bị chia cắt.

Hạn điền cần được xem xét một cách cởi mở hơn trong quá trình công nghiệp hóa nền nông nghiệp Việt Nam, hiện nay Luật Đất đai còn nhiều bất cập.

Gắn kết mạnh mẽ giữa doanh nghiệp và nhà nông trong quá trình sản xuất và tiêu thụ, cần tạo vùng chuyên canh rộng lớn, trong đó nông dân là cổ đông quan trọng của tổ chức sản xuất mới này. Như vậy, mới có thể gắn bó quyền lợi của họ với nhau theo tinh thần Quyết định số 80 của Chính phủ; khắc phục tình trạng chia cắt giữa sản xuất, thu mua, chế biến và thị trường. Doanh nghiệp phải xác định lại chiến lược kinh doanh hợp lý hơn, để trở thành người đồng hành thực sự của nông dân. Nông dân không thể tự đầu tư máy sấy lúa, máy gặt đập liên hợp, v.v.. Nông dân rất cần dịch vụ này từ nguồn đầu tư của doanh nghiệp.

Việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng vùng chuyên canh phải bảo đảm lợi ích cho nông dân về thủy lợi, công nghệ sau thu hoạch, giao thông nông thôn, kho dự trữ nông sản, kho giống đạt chuẩn quốc gia, chợ đầu mối,...

Ba là, chuyển đổi đất nông nghiệp phải gắn với nội dung thực hiện các giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu, an sinh xã hội. Tình trạng nước biển dâng, xâm nhập mặn ngày càng trở thành nguy cơ lớn đối với sản xuất nông nghiệp, khô hạn diễn biến bất thường sẽ ảnh hưởng đến quyết định quy hoạch phục vụ cho chiến lược phát triển chung của đất nước.

Nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang phát triển chiều sâu, trên cơ sở khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển nhanh. Giải quyết bài toán thu nhập thấp của nông dân chính là giải pháp phát huy khả năng tái sản xuất mở rộng với sự trợ giúp của công nghiệp và dịch vụ để nông nghiệp, nông thôn tiến hành chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Một nghịch lý cần được tháo gỡ là, nhà khoa học khuyến khích "phát triển bền vững" trong khi nông dân cần "thu nhập tăng". Nông dân không thể chấp nhận một giải pháp kỹ thuật mới, nếu thu nhập của họ không được cải thiện. Thực hiện GAP (thực hành nông nghiệp tốt), tìm đầu ra cho nông sản có giá trị xuất khẩu cao có thể được xem là một trong các giải pháp được chọn.

Thu nhập của nông dân trồng lúa thấp như hiện nay là nguy cơ, khi đất lúa bị thu hẹp trong tương lai. Những lao động trẻ sẽ vắng bóng trên đồng ruộng, họ tìm cách di cư tạo sức ép to lớn cho các đô thị. Vì vậy, cần có những chính sách tạo công ăn việc làm thuận lợi cho nông dân hoặc đào tạo họ phục vụ cho công nghiệp và dịch vụ tương xứng với việc chuyển mục đích sử dụng đất.

Bốn là, chuyển đổi đất nông nghiệp phải gắn với tổ chức nông nghiệp đô thị. Trong quá trình đô thị hóa, người ta thường quan tâm đến quy hoạch và diện mạo đô thị mà bỏ qua hoặc coi nhẹ công tác quy hoạch nông nghiệp ven đô. Quá trình đô thị hóa nhanh gây nhiều biến động lớn đến thị trường bất động sản (đất đai), đẩy nông nghiệp ra xa hơn, gây bất ổn và xáo trộn rất nhiều nếu chúng ta không có biện pháp giải quyết sớm một cách có tính chất tư vấn.

Nông nghiệp đô thị sẽ tạo ra các vành đai từ trong ra ngoài: (1) vành đai nông nghiệp thoái hóa do tốc độ đô thị hóa, (2) vành đai nông nghiệp thích ứng, (3) vành đai nông nghiệp phát triển. Độ lớn nhỏ của vành đai tùy thuộc vào tốc độ phát triển đô thị. Vành đai nông nghiệp thích ứng sẽ sản xuất chủ yếu các sản phẩm tươi sống và sản phẩm có khối lượng vận chuyển lớn cung cấp cho nhu cầu đô thị, hạn chế phát triển chăn nuôi đại gia súc.

Sự chuyển dịch và sử dụng đất lúa, xác định ưu tiên đầu tư và nghiên cứu phải do Chính phủ điều hành và kiểm soát. Mọi diễn biến nói trên phải vì mục tiêu an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp bền vững, khai thác lợi thế so sánh, né tránh điều kiện bất lợi của tự nhiên, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, kết hợp giữa phương pháp sản xuất truyền thống và công nghệ sinh học, gia tăng thu nhập ngày càng cao cho nông dân./.