Bảo vệ hay xuyên tạc, vu cáo?

Tạ Quang Đạo Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
17:42, ngày 05-03-2013
TCCSĐT - Tổ chức Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ) được thành lập năm 1981 với mục tiêu “thúc đẩy tự do ngôn luận trên toàn thế giới thông qua hoạt động bảo vệ quyền đưa tin và nền tự do báo chí trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan...”. Tuy nhiên, những gì mà họ thể hiện gần đây đã cho thấy CPJ đang ngày càng xa rời mục tiêu, tôn chỉ hoạt động của mình.

CPJ bảo vệ ai?

Mới đây nhất, ngày 14-02-2013, CPJ công bố cái gọi là Phúc trình thường niên về tình hình tự do báo chí toàn cầu trong đó có những nhìn nhận thiếu khách quan nếu như không muốn nói là xuyên tạc, vu cáo tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Theo tổ chức này, Việt Nam nằm trong tốp 5 quốc gia cầm tù nhiều nhà báo nhất trên thế giới. 

Trước hết cần phải nói rằng, tuy tự nhận là “hiệp sĩ” bảo vệ các nhà báo trên toàn cầu song xem ra CPJ đang nhầm lẫn (hoặc cố tình nhầm lẫn) giữa nhà báo và những “blogger” (những người viết blog). Một điều rất đơn giản mà ai cũng biết, nhà báo, còn gọi là ký giả, là những người làm công tác báo chí chuyên nghiệp, hoạt động báo chí với tư cách là hoạt động nghề nghiệp, được xã hội công nhận và pháp luật bảo vệ. Đáng tiếc, trong phúc trình của mình, CPJ đã “nhầm lẫn” giữa những nhà báo chân chính ở Việt Nam với những “blogger” phản động, những phần tử lợi dụng viết blog để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những “nhà báo tự do”, “cây bút tự do”,… được CPJ nêu ra như Tạ Phong Tần, Đinh Đăng Định, Lê Thanh Tùng,… không ai khác chính là những cá nhân có hành vi “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trên in-tơ-nét.

Rõ ràng, ở đây danh nghĩa “nhà báo” đã bị CPJ lạm dụng một cách quá đáng. Họ đã cố tình tạo ra cách hiểu mập mờ giữa nhà báo với một số người lợi dụng việc viết báo, làm báo để đi ngược lại tôn chỉ, mục đích của những nhà báo chân chính. Do đó, thay vì bảo vệ những nhà báo như họ vẫn lớn tiếng tuyên bố, CPJ lại “bao che” cho những người vi phạm pháp luật ở Việt Nam. Vì vậy, xét ở góc độ khác, việc CPJ công bố Phúc trình thường niên về tình hình tự do báo chí toàn cầu là hành động xúc phạm những nhà báo chân chính, những người bằng hoạt động nghề nghiệp của mình đã và đang đóng góp vào sự phát triển của xã hội Việt Nam, đồng thời cũng là hành động can thiệp phi lý vào nền báo chí Việt Nam.

Vì mục đích gì?

Vấn đề mà dư luận đang đặt ra là phía sau việc “nhầm lẫn” của CPJ là động cơ, mục đích gì? Phải chăng đây chỉ là “sai sót nghề nghiệp”?

Đi tìm lời giải cho câu hỏi này, thiết nghĩ chúng ta nên bắt đầu từ chính thực tiễn đời sống báo chí Việt Nam những năm gần đây. Chỉ có những người dân Việt Nam, những người hoạt động báo chí ở Việt Nam mới thấy hết tính chất xuyên tạc, vu cáo trắng trợn trong những luận điệu mà CPJ đưa ra. Thực tế ở Việt Nam không có nhà báo nào bị bỏ tù chỉ vì họ hành nghề báo chí như CPJ cáo buộc. Những “blogger” hưởng án tù vì họ vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam, lợi dụng mạng in-tơ-nét gây bất ổn cho đời sống xã hội. Mặt khác, với những chứng cứ rõ ràng, các “blogger” này đều đã phải cúi đầu nhận tội trước tòa. Trong quá trình xét xử, ngay cả các luật sư bào chữa cho họ cũng thừa nhận tòa xử đúng người đúng tội.

Sự thật về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam trong những năm qua đã phản bác lại những xuyên tạc, vu cáo của CPJ. Việt Nam hiện có hơn 700 cơ quan báo chí, trong đó có 634 cơ quan báo in với 813 ấn phẩm, 70 đài phát thanh, truyền hình trung ương và địa phương, hơn 200 báo điện tử và hệ thống báo mạng; 1 đài phát thanh và 1 đài truyền hình quốc gia, 4 đài truyền hình khu vực và hơn 600 đài truyền thanh cấp huyện.

Bên cạnh hơn 19 nghìn hội viên Hội Nhà báo Việt Nam cùng hàng nghìn phóng viên hoạt động báo chí chuyên nghiệp, dịch vụ in-tơ-nét ở Việt Nam cũng phát triển vượt bậc. Theo số liệu mới nhất của WeAreSocial - tổ chức nghiên cứu độc lập về truyền thông xã hội toàn cầu có trụ sở tại Anh - số người dùng in-tơ-nét ở Việt Nam tính đến tháng 10-2012 là 30,8 triệu. Tỷ lệ người dùng in-tơ-nét trên tổng số dân là 34% (cao hơn mức trung bình của thế giới là 33%). Riêng năm 2012, Việt Nam có thêm 1,59 triệu người dùng mới.

Những số liệu kể trên có thể chưa đầy đủ song thiết nghĩ đó chính là minh chứng sống động cho “bức tranh” đa sắc màu về tự do truyền thông, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay.

Cũng cần nói thêm, từ lâu CPJ vốn được biết đến như một tổ chức có “thâm niên” trong việc lợi dụng chiêu bài “bảo vệ nhà báo”, “bảo vệ tự do ngôn luận” để xuyên tạc, vu cáo, tạo áp lực và can thiệp vào công việc nội bộ của một số nước. Những người quan tâm đến tổ chức này hẳn vẫn còn nhớ, cách đây chưa lâu bằng việc chụp mũ “nhà dân chủ”, “nhà báo tự do”, “cây viết độc lập”,… CPJ đã yêu cầu Việt Nam trả tự do cho Vi Đức Hồi, Cù Huy Hà Vũ,… trong khi đây là những cá nhân mang tội danh “tuyên truyền chống chế độ”. Với thủ đoạn tương tự, nhiều năm qua CPJ đã không ít lần tung tin bịa đặt, vu cáo Việt Nam đàn áp tự do ngôn luận để kích động, chống phá con đường phát triển của Việt Nam.

Lần này, với cái gọi là Phúc trình thường niên về tình hình tự do báo chí toàn cầu, một lần nữa CPJ lại dùng đến những chiêu trò cũ. Chính sự mập mờ, “đánh lận con đen” giữa nhà báo với “cây bút tự do”, “nhà báo tự do”,… đã tự vạch trần âm mưu đen tối của CPJ. Lố bịch hơn khi không dừng lại ở những luận điệu xuyên tạc, vu cáo, CPJ còn lên tiếng “khuyến nghị” một số tổ chức quốc tế như Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu,... cần đưa vấn đề tự do báo chí, tự do in-tơ-nét thành những điều kiện trong quan hệ hợp tác với Việt Nam!

Đến đây, không cần nói hẳn ai cũng có thể nhận ra mục đích sâu xa ẩn sau tấm bình phong “bảo vệ nhà báo” của CPJ. Cách thể hiện cũng như những luận điệu của CPJ đã tự lật tẩy động cơ chính trị thiếu trong sáng của họ khi đánh giá về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Rõ ràng, cái đích mà họ hướng đến không phải vì các nhà báo chân chính như danh xưng Ủy ban bảo vệ nhà báo./.