Dạy nghề cho nông dân - muôn nẻo khó khăn

Thanh Mai
17:04, ngày 03-11-2010

TCCS - Muôn nẻo khó khăn việc dạy nghề cho nông dân, song nếu gỡ được, sẽ tạo nên sự thay đổi về chất đối với nguồn lực nông thôn vốn rất dồi dào, chiếm khoảng 75% số dân toàn quốc, tạo động lực quan trọng cải thiện và nâng cao đời sống nông dân, biến đổi bộ mặt nông thôn, dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội đất nước phát triển.

Ở nước ta, hằng năm có khoảng 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Tình trạng thừa lao động nông nghiệp đang phổ biến vốn do tình trạng đất chật, người đông, lại do tác động của quá trình đô thị hóa, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, đất canh tác ngày càng bị thu hẹp và manh mún... Trong khi đó, việc tổ chức thực hiện hỗ trợ dạy nghề, chuyển đổi ngành nghề cho người nông dân phải đối mặt với nhiều khó khăn, nên hiệu quả chưa cao. Việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và điều kiện sản xuất ngày càng được cải thiện, cho phép lao động đảm đương phạm vi canh tác lớn hơn... cũng tạo nên tình trạng dư thừa lao động. Dạy nghề để nông dân từng bước chuyển đổi ngành nghề, làm giàu chính đáng và chủ động hội nhập vào xu thế phát triển xã hội hiện đại đang là vấn đề nóng bỏng hiện nay.

Từ “thiếu” đủ thứ...

Thiếu đội ngũ giảng viên, cán bộ đào tạo nghề cho nông dân. Thời gian qua, nhiều cơ sở dạy nghề của Hội Nông dân Việt Nam phải mời giảng viên là cán bộ các trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề thuộc ngành nông nghiệp và cán bộ khuyến nông các cấp. Trung tâm, cơ sở dạy nghề của các địa phương cũng thiếu trầm trọng giáo viên. Cả nước hiện có tới 42 trung tâm dạy nghề không có giáo viên cơ hữu, 100 trung tâm chỉ có từ 2 - 3 giáo viên cơ hữu. Cán bộ quản lý dạy nghề ở một số cơ sở chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, thiếu kinh nghiệm quản lý. Với mục tiêu mỗi năm đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn theo Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020", còn thiếu khoảng 2.900 giáo viên (chỉ tính riêng trong năm 2010).

Thiếu sự quan tâm, phối hợp của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, xuất phát căn bản từ nhận thức của một bộ phận cán bộ, doanh nghiệp vẫn coi nhẹ hoặc chưa ý thức được rằng, đào tạo nghề cho nông dân là giúp doanh nghiệp, địa phương phát triển ổn định, lâu dài, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của địa phương và cả nước.

Thiếu tài liệu tin cậy hướng dẫn, đào tạo nghề cho nông dân. Đơn cử, hiện nay, sách dạy nghề cho nông dân còn nhiều sai sót, gây lãng phí không nhỏ; không ít tài liệu chưa cập nhật, trong khi công nghệ và hoạt động sản xuất thực tiễn thay đổi nhanh. Việc biên soạn giáo trình dạy nghề đa phần do các trung tâm dạy nghề tự tổ chức, nên xảy ra tình trạng “mỗi nơi mỗi phách”. ở các hiệu sách, hầu như vắng bóng sách dạy nghề cho nông dân, nên nhiều người muốn mua cũng không biết tìm ở đâu, hoặc tìm được nhưng không biết chọn sách nào hay để đọc.

Thiếu cơ sở dạy nghề, thiếu kinh phí đầu tư cho hoạt động biên soạn giáo trình dạy nghề và trang bị cơ sở vật chất phục vụ hoạt động thực hành nghề. Năm 2006 - 2007, Trung tâm dạy nghề thuộc Hội Nông dân Việt Nam dành 200 triệu đồng cho việc biên soạn, in ấn và thẩm định 12 bộ giáo trình, với khoảng 3.000 cuốn; nhưng đến năm 2008, Trung tâm không có kinh phí cho việc biên soạn giáo trình, nên giáo trình không được cập nhật. Trong cả nước, còn 253 huyện chưa có trung tâm dạy nghề, 31% số phòng học và 20,7% số nhà xưởng thực hành của các cơ sở dạy nghề là nhà cấp bốn.

Bên cạnh không ít nông dân thực sự cầu tiến, ham mê học hỏi mong có nghề tốt trong tay, còn một bộ phận người thiếu “lửa” nhiệt tình trong việc học nghề, hoặc “đứng núi này trông núi nọ”, học chưa được bao lâu thì chán nản, bỏ theo học nghề khác. Rốt cuộc không học được nghề nào hoàn chỉnh, nên gây lãng phí thời gian, tiền bạc và công sức của cả hai bên: đào tạo nghề và được đào tạo nghề.

... Đến sự “thừa” âu đó cũng là lực cản!

Từ thừa sách...

Tình trạng quá nhiều sách dạy nghề, đào tạo nghề nên nông dân “không biết đường nào mà lần”, khó có thể tự chọn cho mình những tài liệu, giáo trình cần thiết, tin cậy đang là mối băn khoăn của nhiều cấp, ngành hữu quan và bản thân nông dân. Trung bình mỗi năm có hơn 500.000 nông dân trên cả nước được đào tạo nghề. Song, với số lượng hằng trăm cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu, chuyên gia nước ta hiện nay, nên tuy lượng đầu sách, giáo trình, tài liệu dạy nghề, đào tạo nghề cho nông dân nhiều, nhưng chưa có sự thống nhất. Sách có đến được tay nông dân, và hiệu quả của nó ra sao, hiện vẫn chưa có điều tra, thống kê cụ thể.

Đến thừa... người!

Dạy nghề cho nông dân trong tình trạng vừa “thiếu”, vừa “thừa” đòi hỏi sự đồng tâm hiệp lực của các nhà quản lý, đào tạo và nông dân nhằm tìm được tiếng nói chung, đề ra cách thức, hình thức đào tạo nghề hiệu quả, tránh lãng phí, giúp nông dân làm giàu chính đáng.

Không chỉ là thừa số lao động nông thôn chưa hội đủ yêu cầu về trình độ tay nghề, năng lực do doanh nghiệp, cơ sở sản xuất... yêu cầu. Hằng năm, nước ta có thêm khoảng 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, trong đó lực lượng lao động ở nông thôn tăng nhanh. Trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã... còn hạn chế, sức ép cạnh tranh do nước ta gia nhập WTO trực tiếp tác động vào khu vực nông nghiệp, làm trầm trọng hơn tình trạng thừa lao động. Do đó, thiếu việc làm trở nên rất phổ biến ở nông thôn, gần 20% thời gian lao động chưa được sử dụng (chỉ đạt khoảng 175 ngày công/năm/lao động). Trong khi đó, ở các nước kinh tế phát triển, tình trạng thừa lao động chỉ xảy ra theo chu kỳ sản xuất và khi có thay đổi nhu cầu tiêu dùng hàng hóa trong xã hội...

Thực trạng “vừa thiếu, vừa thừa” gây lãng phí tiền bạc, thời gian của cả hai phía: đào tạo nghề và được học nghề, lớn hơn là lãng phí sự đầu tư, quan tâm của xã hội và lãng phí nguồn lực lao động nông thôn dồi dào, gây cản trở không nhỏ cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Theo thống kê tại Sàn giao dịch việc làm Hà Nội, thời gian gần đây, nhu cầu tuyển lao động của các doanh nghiệp luôn ở mức cao, từ 3.000 - 5.000 người, nhưng chỉ tuyển được 10 - 15%. Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 13 khu công nghiệp, khu chế xuất với hơn 1.000 doanh nghiệp hoạt động ở nhiều ngành nghề, cùng hơn 250.000 lao động, nhưng khoảng hơn 300 doanh nghiệp đang thiếu trầm trọng lao động. Từ đầu năm 2010 đến nay, doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp, khu chế xuất này tuyển được 17.000 lao động, nhưng vẫn còn thiếu khoảng 37.000 lao động từ nay đến cuối năm. Các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Long An... cũng trong tình trạng “khủng hoảng” lao động, chủ yếu ở các lĩnh vực may mặc, da giày và chế biến gỗ...

Đâu là nguyên nhân?

- Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, nhiều địa phương hiện nay vẫn chưa quan tâm đúng mức tới việc dạy nghề cho lao động nông thôn, mạng lưới cơ sở cấp huyện còn mỏng, đến đầu năm 2009, vẫn còn tới 50% số huyện chưa có trung tâm dạy nghề. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cao Đức Phát, từng nhấn mạnh, thực hiện mục tiêu mỗi năm dạy nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn không hề dễ nếu không triển khai quyết liệt, cách làm hợp lý. Nông dân mong đợi nghề họ học xong có thể áp dụng vào thực tế, song nghịch lý là tuy Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan nắm sát tâm tư, nguyện vọng của nông dân, nhưng cũng chỉ xác định được bốn lĩnh vực chung chung cần đào tạo là: kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, lâm sinh, ngư nghiệp, diêm nghiệp; chế biến nông - lâm - thủy sản; quản lý tưới tiêu, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường nông thôn; quản lý và dịch vụ nông nghiệp. Do đó, không ít nông dân lo ngại, việc xác định các lĩnh vực chung chung như trên sẽ dẫn tới tình trạng cái cần không dạy, dạy cái không cần, nông dân ồ ạt đi học nhưng học xong không sử dụng được, gây lãng phí tiền của Nhà nước.

- Nhiều người lao động thiếu ý thức trong việc học nghề, “đứng núi này trông núi nọ”, nên chưa học xong nghề này đã nhảy sang học nghề khác, rốt cuộc chẳng tinh nghề nào. Hoặc, nông dân được học nghề không đúng với nhu cầu và khả năng của bản thân, gia đình, nên “học xong bỏ đấy”.

- Khâu tuyên truyền tại cơ sở còn kém, nên nhiều người dân chưa thấy được tầm quan trọng của việc học nghề. Người phụ trách công tác tuyên truyền dạy nghề cho nông dân tại các cơ sở đa phần làm kiêm nhiệm, địa bàn nông thôn lại tương đối rộng, nên việc tuyên truyền chưa được thường xuyên, liên tục, chất lượng tuyên truyền chưa đạt hiệu quả cao.

- Tình trạng “lắm thầy, nhiều thợ”, quá nhiều giáo trình, tài liệu tham khảo mà chưa có bộ giáo trình chuẩn, nên “mạnh ai nấy dạy”, mỗi nơi đào tạo một kiểu nên số lượng, chất lượng người lao động được đào tạo mỗi nơi mỗi khác. Nhiều nơi chưa chủ động được nguồn giáo viên dạy nghề, cộng với cơ sở vật chất của trung tâm đào tạo nghề còn thiếu thốn, nên yêu cầu về việc giảng dạy có chất lượng và tổ chức cho học viên thực hành còn gặp nhiều khó khăn. Cơ cấu ngành nghề đào tạo ở nhiều nơi bị mất cân đối, nên xảy ra tình trạng “cung” nhiều mà “cầu” ít.

Đào tạo nghề cho nông dân cần gắn chặt với tìm hiểu nhu cầu thị trường để tránh tình trạng “cung” vượt quá “cầu” hoặc “cầu” không được đáp ứng do thiếu nguồn lao động bảo đảm yêu cầu đề ra.

- Chính sách tiền lương chưa phù hợp (ví dụ ở ngành dệt may, lương bình quân chỉ đạt 1,43 triệu đồng/người/tháng, da giày 1,38 triệu đồng/người/ tháng), nên chưa tạo động lực để người lao động chuyên tâm học hỏi, xác định gắn bó lâu dài với nghề mình được đào tạo.

- Việc chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn dù đã được Nhà nước quan tâm đầu tư, nhưng trên thực tế diễn ra quá chậm, ảnh hưởng đến vấn đề việc làm cho người lao động. Hiện nay, tỷ lệ lao động ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhưng vẫn ở mức thấp, chiếm 40,2% tổng số lao động. Trong khi đó, nước ta có tiềm năng lớn về ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp, có thể thu hút nhiều lao động nhưng lại chưa được quan tâm đầu tư để phát huy hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực lao động.

Cần lắm sự chuyên nghiệp

Thứ nhất, cần có chính sách toàn diện và đồng bộ hơn nữa về đào tạo nghề cho nông dân gắn với xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững. Bên cạnh việc hiện đại hóa nông nghiệp, đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng nhằm tăng giá trị của đất và đầu tư nghiên cứu phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, các biện pháp tăng năng suất lao động ở nông thôn, cần tăng cường đầu tư nhân lực qua các chương trình giáo dục, dạy nghề, xây dựng trường học, trung tâm dạy nghề, trung tâm tư vấn và giới thiệu việc làm... Đồng thời, xây dựng các thiết chế xã hội bảo đảm cung cấp các dịch vụ công hiệu quả, cung cấp tín dụng, hệ thống thông tin thị trường, tổ chức các hiệp hội ngành nghề, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại... và những mô hình phát triển bền vững để tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân lựa chọn ngành, nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện, khả năng của mình.

Thứ hai, sự chuyên nghiệp từ chính người nông dân, trước tiên từ nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc có nghề trong tay, thái độ học nghề nghiêm túc, cầu thị để có nghề tốt nuôi sống bản thân, gia đình, làm giàu chính đáng.

Thứ ba, chuyên nghiệp trong hình thức, cách thức đào tạo:

- Giáo trình cần bài bản, thống nhất hơn, nhưng phải bảo đảm tính đa dạng và chuyên biệt tùy theo ngành, nghề đặc trưng; gắn với nâng cao chất lượng và cải tiến cách thức đào tạo phù hợp với yêu cầu thực tiễn và nhu cầu đa dạng của nông dân. Gần đây, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Đàm Hữu Đắc, ký quyết định về quy trình sản xuất, thẩm định và ban hành học liệu phim video cho các chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp nghề và chương trình dạy nghề dưới ba tháng. Đây được kỳ vọng là cách dạy nghề sinh động, hiệu quả cho nông dân.

- Người dạy nghề phải là các thầy cô giáo chuyên ngành nông nghiệp và cán bộ khuyến nông, nông dân có nhiều kinh nghiệm, để học viên được học không chỉ lý thuyết, mà còn học cả kinh nghiệm thực tiễn.

- Nên chăng, bên cạnh hình thức cấp vốn đào tạo cho cơ sở dạy nghề, nên phát phiếu hoặc tích-kê có mệnh giá tiền cho nông dân, để họ tự chọn cơ sở dạy nghề (cơ quan dịch vụ). Ví dụ, ở miền Bắc, nông dân muốn thâm canh các giống lúa mới có thể đến học tại trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội; ở miền Nam, có thể tìm đến Đại học Cần Thơ, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long... Người học nghề cũng có thể đến trang trại của các nông dân làm kinh tế giỏi để học hỏi kinh nghiệm thực tiễn. Nông dân học ở đâu thì cơ sở đó được trả các tích-kê có mệnh giá tiền, tương ứng với số người học. Nông dân nếu muốn theo học nhiều nghề, quá mệnh giá tiền theo tích kê được cấp phát, sẽ phải bỏ thêm tiền của cá nhân để theo học và vẫn được cơ sở đào tạo hỗ trợ tiền ăn ở khi theo học, theo số tiền học đóng góp. Quản lý vốn theo cách này, là trao cho nông dân quyền tự chủ được chọn ngành nghề đào tạo theo sở thích và điều kiện tìm kiếm việc làm của mình, cơ sở nào thầy giỏi sẽ có nhiều nông dân tìm đến học, tránh được tình trạng phân chia vốn dàn trải cho các cơ sở đào tạo, khai man lớp học, học viên và thời gian học để được đầu tư vốn. Các cơ sở cũng phải thu thập thông tin phản hồi của người học nghề, nhằm giúp các cơ quan quản lý đánh giá được kết quả của việc đầu tư đào tạo nghề cho người lao động(1).

- Đào tạo cần gắn chặt với thực hành, cơ sở đào tạo cần chủ động tìm hiểu, liên kết với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp... để nắm bắt nhu cầu tuyển lao động của doanh nghiệp, và giới thiệu việc làm cho học viên. Cũng nên tăng cường tổ chức các Hội thi tay nghề, Hội chợ giới thiệu việc làm... để nông dân có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với việc làm. ở các địa phương có làng nghề, cần coi trọng việc phát triển và gây dựng “thương hiệu” cho làng nghề nhằm giúp người dân có việc làm lâu dài, ổn định./.