Phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam

Phạm Thị Khanh
10:19, ngày 17-05-2010
TCCSĐT - Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có nhiều ưu thế vượt trội so với các quốc gia phát triển nông nghiệp trong khu vực để phát triển mặt hàng lúa gạo, mở rộng thị trường, gia tăng tích lũy vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo trên thị trường không chỉ có ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà luôn gắn liền với sự ổn định kinh tế, chính trị - xã hội trong suốt quá trình phát triển của đất nước.
 
Xét trong mối tương quan với các ngành sản xuất vật chất khác, sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất lúa gạo nói riêng có mức sinh lời thấp hơn so với các ngành công nghiệp và dịch vụ; lại luôn phải chịu tác động rủi ro từ nhiều phía (cả về tự nhiên và thị trường…). Vì vậy, việc sản xuất lúa gạo không phải là lĩnh vực hấp dẫn các quốc gia đầu tư phát triển. Trong khi đó, quy mô dân số trên trái đất không ngừng gia tăng; cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) diễn ra nhanh chóng ở nhiều quốc gia đang phát triển làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp, gây sức ép lớn về sản xuất – kinh doanh lúa gạo cũng như an ninh lương thực ở từng quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Gia tăng sản lượng, năng xuất và chất lượng lúa gạo là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển bền vững của nhân loại.

1. Lúa gạo Việt Nam - mặt hàng có khả năng cạnh tranh trên thị trường nông sản thế giới

Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có nhiều ưu thế vượt trội so với các quốc gia phát triển nông nghiệp trong khu vực để phát triển mặt hàng lúa gạo, mở rộng thị trường, gia tăng tích lũy vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo trên thị trường không chỉ có ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà còn luôn gắn liền với sự ổn định kinh tế, chính trị - xã hội trong suốt quá trình phát triển của đất nước.

Trong trồng trọt, lúa là cây trồng chính trong hệ thống cây trồng ở nước ta. Trong tổng số 11 triệu hộ nông dân, có trên 80% số hộ trồng lúa. Vì vậy, sản xuất lúa gạo có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống của nông dân nước ta. Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, trong đó, lúa gạo được coi là cây có khả năng cạnh tranh trên thị trường nông sản thế giới, được khuyến khích phát triển.

Diện tích trồng lúa ở nước ta có sự thay đổi đáng kể trong các thời kỳ phát triển. Mặc dù diện tích trồng lúa có xu hướng giảm sút, nhất là lúa vụ mùa, do nông dân tự phát chuyển đổi quá nhanh cây trồng (những nơi đất xấu, sản xuất lúa bất bênh) cùng với quá trình đô thị hóa, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất… diễn ra nhanh chóng, nhưng sản lượng lúa vẫn có xu hướng tăng lên, đạt khoảng 35-36 triệu tấn; năm 2008 đạt khoảng trên 36 triệu tấn (1) và năm 2009 đạt sản lượng khoảng 40 triệu tấn.

Năng suất lúa của Việt Nam, nhìn chung, có xu hướng tăng lên nhờ có sự cải thiện trong công tác giống, chăm sóc lúa, phòng trừ sâu bệnh... Năng suất lúa vụ mùa và vụ hè thu năm 2007 đạt mức cao kỷ lục (4,4 tấn/ha trong vụ mùa và 4,5 tấn/ha trong vụ hè thu. Đây là năng suất lúa cao nhất trong vòng 30 năm trở lại đây. Tuy nhiên, lúa đông xuân dường như đã tới hạn của năng suất, năm 2007, chỉ đạt 5,7 tấn/ha. Đặc biệt, năng suất lúa lai của Việt Nam năm 2009 đạt từ 6 – 6,3 tấn/ha. Việc giữ vững và gia tăng năng suất, sản lượng lúa của cả nước là tiền đề tốt để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như đẩy mạnh xuất khẩu gạo trên thị trường khu vực và thế giới.

2. Sức cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới

Theo “Báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam”, mặt hàng lúa gạo của Việt Nam ngày càng được mở rộng và phát triển ở khắp các châu lục trên thế giới. Đặc biệt, lúa gạo xuất khẩu của Việt Nam được giữ vững ở những thị trường truyền thống (châu Á, châu Âu và châu Mỹ) và mở rộng, phát triển thị trường mới (châu Phi và Trung Đông). Sự vươn lên trong thị trường lúa gạo thế giới của Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò của mặt hàng gạo Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Đồng thời, không ngừng gia tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo thuận lợi trong tích lũy ngoại tệ cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bảng 1: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2009

Các năm

Khối lượng xuất khẩu (1.000 tấn)

Kim ngạch xuất khẩu (Triệu USD)

2000

3.477

667

2001

3.729

625

2002

3.241

726

2003

3.813

720

2004

4.060

950

2005

5.250

1.047

2006

4.600

1.238

2007

4.558

1.490

2008

4.830

2.910

2009

6.052

2.463

Nguồn: AGROINFO

Sức cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới thể hiện ở nhiều mặt, chủ yếu là:

- Về khối lượng gạo xuất khẩu: Khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ hai thế giới về mặt cung sản phẩm.

Khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2009 có xu hướng tăng lên. Nếu như năm 2001, khối lượng xuất khẩu gạo chỉ đạt trên 3,7 triệu tấn, thì đến năm 2008 đã xuất khẩu trên 4,8 triệu tấn; năm 2009 khối lượng xuất khẩu gạo đạt trên 6 triệu tấn. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo tăng từ 625 triệu USD năm 2001 lên hơn 1 tỉ USD (năm 2005); 2,46 tỉ USD (2009). Riêng 5 tháng đầu năm 2010, lượng gạo xuất khẩu đạt 2,1 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 983 triệu USD.

Tuy nhiên, nếu so với Thái Lan, năng lực xuất khẩu gạo – xét về lượng của nước ta chỉ khoảng 4,5 – 6 triệu tấn/năm, bằng 50%, tức 10 triệu tấn gạo mà Thái Lan đã xuất khẩu trên thị trường khu vực và thế giới những năm qua.

Theo tính toán của các nhà khoa học, do quá trình đô thị hóa, nhất là thực hiện chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, diện tích đất “bờ xôi, ruộng mật” dùng để trồng lúa bị giảm nghiêm trọng. Ứơc mỗi năm, diện tích trồng lúa mất đi vài trăm ngàn ha. Thêm vào đó, nông dân đã và đang thực hiện chuyển đổi cây trồng (phần lớn là tự phát) từ trồng lúa có năng suất thấp, bấp bênh sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế cao hơn. Điều đó dẫn đến tình trạng suy giảm rất đáng kể khối lượng gạo sản xuất ra, kéo theo là khối lượng gạo xuất khẩu bị suy giảm trong khi việc thâm canh lúa ở những vùng đồng bằng – vùng chủ lực trong sản xuất lúa gạo dường như đã đến hạn, khó có thể làm gia tăng năng suất lúa cao hơn. Dự báo, nếu như không giữ vững diện tích trồng lúa, đến năm 2020, khối lượng gạo của Việt Nam sản xuất ra chỉ đủ tiêu dùng trong nước, khó có thể có gạo xuất khẩu. Điều này đẫ xảy ra với một số quốc gia từng dẫn đầu trong xuất khẩu gạo, như Phi-lip-pin, In-đô-nê-xi-a,…

Về năng lực thâm nhập, mở rộng và phát triển thị trường lúa gạo trên thế giới: Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam có mặt ở 128 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 10 quốc gia (Phi-lip-pin, Cu-ba, Ma-lai-xi-a, Xê-nê-gan, I-rắc, Bờ biển Ngà, Đông Ti-mo, Xin-ga-po, Ga-na và In-đô-nê-xi-a) nhập với khối lượng lớn và khá ổn định.

Bảng 2: Thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, năm 2008


Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan

Phi-lip-pin là nước nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Năm 2008, nước này nhập khẩu tới 1,800 nghìn tấn, với kim ngạch 1,400.0 triệu USD.

Bảng 3: Thị phần xuất khẩu mặt hàng lúa gạo Việt Nam ở 10 quốc gia, năm 2008

STT

Tên nước

Thị phần

1

Phi-lip-pin

40

2

Cu-ba

15

3

Ma-lai-xi-a

9

4

Xê-nê-gan

3

5

I-rắc

3

6

Bờ biển Ngà

3

7

Đông Ti-mo

2

8

Xin-ga-po

1

9

In-đô-nê-xi-a

1

10

Ga-na

1

Nguồn: AGROINFO

Trong những năm gần đây, mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam còn được mở rộng và không ngừng phát triển sang thị trường châu Phi và Trung Đông. Đây là thị trường phù hợp với khả năng sản xuất gạo xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên việc xuất khẩu lại phải đi đường vòng - phải thông qua nước thứ ba mới đến được thị trường châu Phi và Trung Đông.

Về chất lượng, phẩm cấp: Phẩm cấp của mặt hàng gạo xuất khẩu không chỉ thể hiện ở mẫu mã, hình thức mà còn thể hiện chủ yếu ở hương vị, thủy phần, tỷ lệ trọn vẹn của hạt gạo trong quá trình xay xát…

Ngoài năng lực trồng cấy các loại giống lúa chất lượng cao, năng suất cao, phẩm cấp tốt phục vụ xuất khẩu, 3 vùng đồng bằng đều có những giống lúa là đặc sản nổi tiếng thế giới. Ngoài ra còn một số giống lúa đặc sản, lúa chất lượng cao khác nhập khẩu từ Thái Lan cũng được triển khai với diện tích trồng theo vùng chuyên canh, nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam có thể sản xuất một số loại gạo đặc sản, với chất lượng cao mà các quốc gia khác không thể có. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, các loại gạo đặc sản có hương vị thơm ngon Việt Nam không thể sản xuất một cách đại trà, do giá thành sản xuất quá cao, người nông dân có lợi nhuận thấp, dẫn đến nguồn cung sản phẩm với khối lượng không lớn, không ổn định đã hạn chế sức cạnh tranh của lúa gạo đặc sản xuất khẩu.

Trên thực tế, xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam vẫn còn nặng về tư tưởng xuất khẩu sản phẩm mà mình có, chưa thực sự quan tâm đến sản phẩm gạo mà thị trường cần. Hơn nữa, trình độ kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất, chế biến lúa gạo còn ở mức thấp… dẫn đến tình trạng cùng chủng loại với sản phẩm của các quốc gia khác, nhất là Thái Lan nhưng phẩm cấp gạo Việt Nam vẫn ở cấp thấp hơn do việc ứng dụng quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc lúa chưa đúng; công nghệ xay xát non yếu và lạc hậu, tỷ lệ hạt gãy cao; tỷ lệ thủy phần (lượng nước) của hạt gạo thường vượt quá mức do năng lực phơi sấy hạn chế… dẫn đến ẩm mốc, khó bảo quản.

- Về giá thành sản xuất sản phẩm và giá bán trên thị trường. Những năm gần đây, giá thành sản xuất gạo của Việt Nam lên xuống thất thường. Khi được mùa, nông dân trúng vụ, giá hạ và ngược lại, khi lúa bị sâu bệnh, thiên tai…, nông dân mất mùa, giá tăng. Năm 2009, giá lúa có xu hướng tăng, tuy nhiên do chi phí đầu vào cao, thiên tai dồn dập… dẫn đến giá thành sản xuất lúa cao, hạch toán kinh tế của người nông dân đối với sản xuất lúa gạo hàng hóa vẫn có mức lợi nhuận thấp.
 
Giá thành sản xuất mặt hàng gạo có xu hướng tăng lên, nhưng trên thị trường lúa gạo thế giới, giá bán gạo Việt Nam năm 2009 là 400 USD/tấn; quý I năm 2010 là 410 USD/tấn, chỉ bằng 80% giá gạo bình quân thế giới (220 USD/tấn) và thường thấp hơn giá bán gạo của Thái Lan khoảng 150 USD – 160 USD/tấn(2). Với giá bán đó không chỉ thể hiện sự yếu thế của mặt hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới, trực tiếp là các doanh nghiệp xuất khẩu gạo mà còn mang lại sự thua thiệt cho nông dân Việt Nam sản xuất lúa.

3. Để nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới

Một là: Nâng cao nhận thức của tất cả các cấp, các ngành về yêu cầu cần thiết, khắt khe trong thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng. Từ nhiều năm nay, nhận thức của người nông dân về thương mại quốc tế, xuất khẩu mặt hàng lúa gạo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế chưa đầy đủ. Nông dân thường ít được trang bị tri thức về những yêu cầu kỹ thuật trồng, chăm sóc lúa để tạo ra những hạt lúa xuất khẩu có chất lượng đáp ứng thị trường khu vực và thế giới. Dường như đây chỉ là công việc chung của Nhà nước, mà trực tiếp là các doanh nghiệp - Hiệp hội xuất khẩu lúa gạo VFA. Trong khi vấn đề này cần được xem xét một cách toàn diện, tổng thể của tất cả các chủ thể tham gia vào việc phát triển thị trường lúa gạo Việt Nam.

Hai là: Thực hiện quy hoạch vùng sản xuất lúa chuyên canh, giữ vững diện tích trồng lúa hàng hóa, đảm bảo nguồn cung lúa gạo ổn định, uy tín và chất lượng cao. Quy hoạch vùng sản xuất lúa chuyên canh là công việc vô cùng quan trọng, bởi thông qua đó có thể dự báo được nguồn cung lúa gạo một cách khách quan, không bị động trong phát triển thị trường mặt hàng lúa gạo nội địa và ngoài nước. Trong quy hoạch ngành hàng này cần tính tới việc sản xuất và tiêu thụ gạo ở tất cả các loại thị trường kể cả dễ tính và khó tính; chủ động nguồn cung hàng lúa gạo đa dạng, phong phú với những loại gạo phù hợp với từng đối tượng nhập khẩu lúa gạo, bao gồm cả chất lượng gạo trung bình và cao.

Ở nước ta từ khá lâu, việc phân chia vùng sản xuất trồng lúa là khá rõ ràng. Các vùng đồng bằng, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là hai vùng sản xuất lúa gạo chủ lực phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện vùng lúa cao sản và đặc sản theo quy hoạch còn chậm trễ; thậm chí không tuân thủ nghiêm quy hoạch đã hoạch định, làm giảm tính chủ động trong nguồn cung mặt hàng lúa gạo, nhất là gạo đặc sản. Trong điều kiện đẩy nhanh công nghiệp hóa, phát triển nhanh đô thị, diện tích đất trồng lúa giảm rất đáng kể theo từng năm thì việc luật pháp hóa, hành chính hóa, khuyến khích và tạo mọi điều kiện để thực hiện tốt quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo hơn bao giờ hết phải đặt lên vị trí hàng đầu.

Ba là: Tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật một cách đồng bộ, hiện đại và hiệu quả cao, đảm bảo vững chắc cho việc nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo trên thị trường thế giới. Hạ tầng kinh tế - kỹ thuật phục vụ sản xuất lúa gạo bao gồm hệ thống các công trình thủy nông tưới, tiêu nước; hệ thống máy móc thiết bị phục vụ thu hoạch, bảo quản, chế biến lúa gạo; hệ thống kho chứa lúa gạo đảm bảo không hao hụt về số lượng, phẩm cấp hạt gạo…
 
Việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật là một quá trình lâu dài và không đơn giản. Ở Việt Nam, sản xuất lúa gạo tuy đã được phân vùng nhưng sản xuất lúa chủ yếu vẫn từ hộ nông dân và rất phân tán; kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật tuy từng bước được xây dựng nhưng thiếu tính đồng bộ, kỹ thuật lạc hậu, và quan trọng hơn, đó là chưa một cơ quan, tổ chức nào đứng ra làm chủ trong xây dựng kết cấu hạ tầng. Nông dân vẫn tự lo là chủ yếu, nhất là trong khâu bảo quản. Ở Thái Lan, việc tạo ra hạ tầng kinh tế - kỹ thuật phục vụ công tác xuất khẩu mặt hàng lúa gạo được Nhà nước làm “bà đỡ”, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Các doanh nghiệp Thái Lan hình thành các kho chứa lúa lớn ở tất cả những nơi sản xuất lúa gạo nông dân không phải trực tiếp lo kho chứa; hệ thống máy xay xát đồng bộ, hiện đại được vận hành tốt, tạo ra những hạt gạo có phẩm cấp cao; tỷ lệ hạt gãy do xay xát thấp...

Bốn là: Nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ phục vụ sản xuất lúa hàng hóa. Để công tác nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh, ứng dụng công nghệ cao, hiện đại vào sản xuất lúa cần phải thực hiện nghiên cứu một cách cơ bản, hiệu quả về giống lúa, điều kiện khí hậu, tính chất lý hóa của đất đai mỗi vùng, miền; kết hợp với việc triển khai, tập huấn ngoài đồng ruộng, đưa khoa học – công nghệ đến với người nông dân gần hơn, sát với sản xuất hơn. Tăng cường vốn đầu tư cho khoa học – công nghệ; thực hiện đi tắt và đón đầu trong việc tạo giống lúa mới, công nghệ chế biến mới … thông qua đó, nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo Việt Nam, đảm bảo phát triển vững chắc thị trường lúa gạo nước nhà trong những năm tiếp theo.

Năm là: Thực hiện hiệu quả mối liên kết kinh tế giữa nhà nước – nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp, tạo thành sức mạnh tổng thể nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường lúa gạo thế giới. Theo Quyết định 80/QD-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng, tạo mối liên kết giữa bốn nhà: Nhà nước – nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp, ban hành từ năm 2002 có thể coi là khâu đột phá, góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản nói chung, mặt hàng lúa gạo nói riêng. Tuy nhiên, mối liên kết này mới dừng lại ở khẩu hiệu. Vì vậy, nông dân là người trực tiếp sản xuất lúa gạo đang rất cần có sự chung tay, giúp sức của nhiều nhà: Nhà khoa học (các Viện nghiên cứu, các trường đại học, các khu công nghệ cao …) trong việc nâng cao tiềm lực sản xuất và chế biến gạo, tạo ra những giống lúa mới có năng suất cao, chất lượng tốt, khả năng kháng bệnh cao; nhà doanh nghiệp cung ứng vốn đầu tư để mua các yếu tố đầu vào (phân bón, thuốc trừ sâu…) phục vụ sản xuất lúa chất lượng cao, hình thành các kho chứa, bãi tập kết hàng hóa đảm bao không giảm phẩm cấp, chất lượng hạt gạo khi sơ chế; Nhà nước trong việc ban hành các chính sách hỗ trợ, chẳng hạn chính sách trợ cấp, trợ giá khi sản xuất lúa gạo gặp rủi ro về thiên nhiên, về thị trường tiêu thụ …

Sáu là: Xây dựng thương hiệu mạnh cho gạo xuất khẩu của Việt Nam, thực hiện tốt công tác tiếp thị, mở rộng thị phần xuất khẩu gạo, thông qua việc thực hiện tốt các biện pháp: Nâng cao chất lượng sản xuất lúa gạo; thực hiện đúng quy trình kỹ thuật trong chọn giống, trồng, chăm sóc, bón phân, tưới nước … đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất lúa gạo hàng hóa; làm tốt khâu đóng gói, bao bì; thực hiện tốt việc chỉ dẫn địa chỉ, mẫu mã, quy cách sản phẩm … ngay trong khâu đóng gói hàng hóa; tăng cường quảng bá mặt hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới thông qua nhiều kênh, nhiều hình thức. Đặc biệt là tổ chức tốt và tham gia một cách hiệu quả các hội chợ về lúa gạo để nâng cao tầm ảnh hưởng trong sản xuất lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới, bao gồm cả thị trường truyền thống và thị trường mới phát triển; đẩy mạnh thực hiện liên kết các nhà sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo Việt Nam với các nhà sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo trong khu vực và trên thế giới, nhất là Thái Lan nhằm chủ động và chi phối việc cung khối lượng gạo cũng như giá bán gạo trên thị trường khu vực và thế giới./.


(1) Tạp chí Phát triển kinh tế, số 10, năm 2006 và Báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam năm 2007 và 2008.

(2) WWW.thongtinthuongmai.vn.