TCCSĐT - Để thực hiện tốt việc kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần thực hiện tốt một hệ thống các giải pháp cơ bản.

1. Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại cho cán bộ và nhân dân

Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa sẽ làm xuất hiện nhiều vấn đề mới cả lý luận và thực tiễn về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại, đòi hỏi thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại.

Trước hết, cần bồi dưỡng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại; kinh nghiệm kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại trong lịch sử dân tộc ta; kinh nghiệm của Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại; thực trạng kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay; kinh nghiệm của các nước trên thế giới về vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Ngoài ra, cần bồi dưỡng kiến thức cơ bản về kinh tế quân sự, kiến thức về quốc phòng, an ninh, kiến thức về chiến lược đối ngoại kết hợp với kinh tế và quốc phòng - an ninh.

Đối với nhóm cán bộ Đảng, Nhà nước và đoàn thể, cần bồi dưỡng kiến thức tương đối hệ thống và toàn diện, những chủ trương và biện pháp ở tầm vĩ mô; tính quy luật của việc kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại; cơ chế tác động và cơ chế vận dụng tính quy luật; vai trò của nhân tố con người trong kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại; quản lý nhà nước đối với kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế.

Đối với nhóm cán bộ kinh tế, tập trung bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng, an ninh, về kinh tế đối ngoại trên một số mặt chủ yếu, nhằm khắc phục tư duy kinh tế thuần tuý, mất cảnh giác trong hợp tác đầu tư với nước ngoài; có tư duy mới về chức năng bảo vệ của quốc phòng - an ninh trong thời kỳ mở cửa, hội nhập và trong tình hình mới; về chống “diễn biến hoà bình”, về âm mưu, thủ đoạn phá hoại trên lĩnh vực kinh tế của các thế lực thù địch.

Đối với nhóm các lực lượng vũ trang nhân dân, tập trung bồi dưỡng kiến thức kinh tế, đối ngoại, kiến thức quân sự, quốc phòng một cách cơ bản, toàn diện, nhất là đội ngũ cán bộ cấp cao, cấp chiến lược, những người có quan hệ trực tiếp đến quá trình hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương và các biện pháp ở tầm vĩ mô về quốc phòng - an ninh. Đồng thời, nâng cao tư duy kinh tế, tư duy kinh tế đối ngoại trong các hoạt động quân sự, hoạt động quốc phòng, an ninh.

Đối với quần chúng nhân dân, bồi dưỡng, xây dựng ý thức kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, làm cho mọi người biết kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh trong hoạt động của mình.

2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại

Quản lý nhà nước về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại là một dạng quản lý đặc thù, là sự gắn kết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại nhằm tạo thành một thể thống nhất, hạn chế mâu thuẫn, hướng tới mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh.

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại cần phải giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xác định đúng đắn vị trí, vai trò của vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại, nhất là trong khi tình hình khu vực và quốc tế có những diễn biến phức tạp về an ninh hiện nay. Theo Nghị định 19/CP của Chính phủ, ban hành ngày 12-3-1994, thì kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh là một trong bốn nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ về công tác quốc phòng.

Thứ hai, xác định đúng và đủ những nội dung quản lý nhà nước về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại, bao gồm: ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chính sách; tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn cho các tổ chức kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh; tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học; tổ chức giáo dục cho toàn dân và đào tạo đội ngũ cán bộ tham mưu cho Đảng và Nhà nước; tổ chức hướng dẫn thực hiện các chính sách, chế độ, quy định nhằm khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chính sách và luật pháp; xử lý những vi phạm pháp luật...

Thứ ba, xây dựng cơ chế quản lý thích hợp về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế.

3. Hoàn thiện cơ chế kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại

Cơ chế kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại là tổng thể các yếu tố về tổ chức và các thể chế tương ứng, bảo đảm cho sự vận hành của các tổ chức, nhằm gắn kết các lĩnh vực kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại thành một chỉnh thể thống nhất, bảo đảm quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế được tiến hành trong trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ một cách vững chắc, đạt tới hiệu quả toàn diện, tổng hợp cả về kinh tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Hoàn thiện cơ chế kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại tập trung vào hai nội dung chủ yếu: cơ cấu tổ chức và cơ chế chính sách - pháp luật.

Về cơ cấu tổ chức, cần bổ sung:

Một là, mở rộng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quốc phòng - an ninh ở các bộ, ngành. Mở rộng chức năng tham mưu cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ về công tác quốc phòng - an ninh và công tác kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại, nhất là trong giai đoạn đầu triển khai toàn diện quy hoạch, kế hoạch chiến lược cho thời kỳ 2011 đến năm 2020.

Hai là, mở rộng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hoạch định chiến lược của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an làm tham mưu, đề xuất các nhiệm vụ, yêu cầu về quốc phòng - an ninh và kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại trong quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn; xác lập nhu cầu trong chiến tranh để trình thông qua Hội đồng quốc phòng - an ninh, thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Ba là, kiện toàn tổ chức, bổ sung nhiệm vụ cho cơ quan tham mưu ở các quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng về công tác nêu trên.

Bốn là, bổ sung nhiệm vụ cho cơ quan tham mưu ở Bộ Công an, tương tự như ở Bộ Quốc phòng, để gắn kết hai mặt quốc phòng với an ninh, và kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại.

Về cơ chế, chính sách và pháp luật, cần thực hiện:

Một là, có chính sách đầu tư thoả đáng cho nhu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Huy động tối đa mọi nguồn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn, theo các phương thức kết hợp truyền thống là tận dụng lẫn nhau của hai lĩnh vực kinh tế và quốc phòng - an ninh. Đối với những dự án, những công trình lớn và quan trọng có nhu cầu lưỡng dụng cao thì phải chủ động đầu tư bằng hai nguồn lực chủ yếu (cho phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư cho quốc phòng - an ninh), nhất là nguồn vốn ngân sách. Như vậy, mới thoả mãn được nhu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh ở trình độ cao và hiệu quả tổng hợp của kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh sẽ lớn.

Hai là, ban hành các chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần một cách thoả đáng đối với các tổ chức kinh tế - xã hội, đơn vị quốc phòng, an ninh và các cá nhân có những công trình nghiên cứu, những đề án khả thi, những dự án, những công trình kinh tế có tính “lưỡng dụng” cao, có giá trị về kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại.

Ba là, luật pháp hoá vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức. Cần phải có bước đi thích hợp và đồng bộ. Trước hết, cần đưa vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại thành quan điểm phổ biến trong tất cả các văn bản pháp luật có liên quan.

Ngoài ra, cần tập trung chỉ đạo thực hiện thí điểm “lưỡng dụng hoá” một số lĩnh vực, ngành kinh tế, công nghệ và sản phẩm có liên quan đến quốc phòng - an ninh.

4. Quán triệt quan điểm, chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại trong điều hành vĩ mô của Nhà nước

Nhà nước phải có cơ chế, chính sách bảo đảm nguồn tài chính đáp ứng yêu cầu quốc phòng - an ninh. Ngân sách quốc phòng phải được xây dựng theo quan điểm quốc phòng toàn dân, theo đó, các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu có nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách quốc phòng. Vấn đề này phải được luật hoá trong văn bản pháp luật của Nhà nước.

Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hằng năm, khi thẩm định các dự án đầu tư xây dựng cơ bản hoặc phương án sản phẩm mới, Nhà nước cần chỉ đạo kết hợp mục tiêu kinh tế và mục tiêu quốc phòng - an ninh nhằm tạo ra các công trình, sản phẩm lưỡng dụng vừa phục vụ dân sinh, vừa phục vụ quốc phòng - an ninh. Trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, cần phải luôn luôn cảnh giác, giữ vững độc lập tự chủ, lấy lợi ích dân tộc làm tiêu chí hàng đầu cho việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại nói chung, chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng.

Để bảo đảm cho việc kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh và đối ngoại, trong quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp cần chú ý trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân gắn với yêu cầu hiện đại hoá lực lượng quốc phòng, kết hợp yêu cầu sản xuất thời bình với chuẩn bị cho yêu cầu sản xuất thời chiến; làm cho mỗi bước tiến lên của công nghiệp là một bước hiện đại hoá lực lượng quốc phòng - an ninh, tăng cường tiềm lực kinh tế - kỹ thuật quốc phòng - an ninh. Bảo đảm khi xảy ra chiến tranh có thể huy động tới mức cao nhất khả năng công nghiệp phục vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.

Để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trên phạm vi cả nước, cũng như ở từng địa bàn chiến lược, Nhà nước cần có chiến lược xây dựng hệ thống giao thông vận tải đồng bộ hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mạng lưới khác nhau: đường bộ, đường không, đường sông, đường biển, đường sắt,… để có thể sử dụng nhiều loại phương tiện, có khả năng hỗ trợ cho nhau, dần dần tạo thành mạng giao thông liên hoàn, liên kết giữa các trục ngang, dọc, giữa giao thông đường bộ với đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không. Chú ý đến giải pháp “ngầm hoá” các công trình giao thông nhằm tăng cường an ninh giao thông và trong tình huống chiến tranh thì tăng cường khả năng che đỡ, phòng tránh vũ khí công nghệ cao của địch; gây khó khăn cho việc thực hiện mục tiêu đánh phá, làm hạn chế hoặc vô hiệu hoá khả năng trinh sát, phát hiện, sát thương của vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại và làm giảm sức mạnh của địch khi tiến công xâm lược.

5. Xây dựng cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu ngành của nền kinh tế gắn với xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh

Quy hoạch kinh tế vùng nếu không tính đến yếu tố quốc phòng - an ninh, có thể dẫn đến bỏ trống địa bàn, sơ hở về quốc phòng - an ninh. Vì thế, xây dựng cơ cấu kinh tế vùng phải đồng thời tạo ra thế trận quốc phòng - an ninh, có tính đến các vị thế xung yếu, các tuyến giao thông, đến quy hoạch dân cư, phân bổ nguồn lực lao động, nguồn lực con người. Xây dựng cơ cấu vùng phải đồng thời là sự bố trí chiến lược thống nhất cả về kinh tế và quốc phòng - an ninh, tạo điều kiện để cả nước và từng địa phương có thể chủ động đối phó với tình huống về quốc phòng, an ninh có thể xảy ra.

Kinh tế và quốc phòng - an ninh phải được kết hợp chặt chẽ với nhau trong mọi khâu và phải được thấu suốt trong mọi ngành kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt là với những ngành có liên quan nhiều đến quốc phòng - an ninh, như: giao thông vận tải (cả đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường hàng không), xây dựng, thông tin - bưu điện, thuỷ lợi, y tế, các cơ sở công nghiệp, kỹ thuật, bố trí các cụm dân cư,… bảo đảm sao cho mỗi công trình được xây dựng lên đều góp phần tạo nên thế trận có lợi cho quốc phòng - an ninh, cả trong thời bình và thời chiến.

Cần chú trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh trên ba vùng kinh tế trọng điểm của đất nước: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Ở góc độ quốc phòng - an ninh, vùng kinh tế trọng điểm chiếm một không gian địa lý rộng lớn và tổng hợp (bảo gồm cả trên bộ, vùng biển, trên không), nằm trong những khu vực năng động nhất của đất nước. Đó chính là những địa bàn giữ một vị trí chiến lược rất trọng yếu trong thế trận phòng thủ quốc gia, cả trước mắt cũng như lâu dài. Do vậy, cần phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh ở các vùng kinh tế này.

Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh ở các vùng kinh tế trọng điểm có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề quốc phòng - an ninh trong xây dựng và phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung. Các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung hầu hết đều nằm trong các vùng kinh tế trọng điểm. Nó thường được xây dựng ở những vùng chiến lược kinh tế, gần các trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, vùng dân cư đông đúc, gần các đầu mối giao thông; do vậy vấn đề kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh ở khu vực này phải được thể hiện và nằm trong quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết và việc hoạch định kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ.

6. Kết hợp trong chiến lược phát triển khoa học - công nghệ; trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

Cần sắp xếp, bố trí để kết hợp nghiên cứu giải quyết những vấn đề đặt ra trong sản xuất và đời sống với những vấn đề của quốc phòng, như: khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề cơ khí hoá, điện khí hoá, phát triển năng lượng, vật liệu xây dựng cần và có điều kiện kết hợp nghiên cứu về sản xuất vũ khí, cải tiến trang bị và thiết bị cho quân đội, công an. Nghiên cứu, giải quyết những vấn đề tổ chức sản xuất có thể gồm cả các vấn đề sản xuất quân sự, quốc phòng (ngoại trừ những vấn đề có tính thuần tuý quân sự, an ninh). Điều đó cho phép vận dụng các thành tựu nghiên cứu khoa học - công nghệ của các ngành vào lĩnh vực quốc phòng - an ninh.

Khuyến khích triển khai các công trình khoa học mang tính lưỡng dụng. Cần xây dựng các cơ chế đặt hàng trong quan hệ giữa các lực lượng khoa học trong và ngoài quân đội; tổ chức các hội đồng khoa học liên ngành ở cấp quốc gia để tổ chức, hướng dẫn việc kết hợp, huy động mọi tiềm lực khoa học - công nghệ trong nghiên cứu và giải quyết những vấn đề chiến lược, cơ bản lâu dài cũng như những nhiệm vụ trước mắt do yêu cầu củng cố quốc phòng, an ninh đặt ra.

Chiến tranh trong điều kiện hiện đại đòi hỏi một nguồn nhân lực có chất lượng cao, được chuẩn bị chu đáo cả về năng lực chuyên môn và ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc. Điều đó làm cho mối quan hệ cân đối, hài hoà giữa huy động lực lượng lao động cho kinh tế và quốc phòng cả về số lượng và chất lượng trở thành một trong những mối quan hệ lớn có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghệ thuật và khoa học của việc kết hợp này là tìm ra phương hướng đúng đắn để giải quyết những vấn đề về tỷ lệ động viên, đối tượng động viên, biện pháp động viên nhân lực vào lực lượng vũ trang mà vẫn đáp ứng các nhu cầu xây dựng kinh tế.

7. Quân đội thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền kinh tế, tích cực tham gia hoạt động kinh tế

Do những đặc điểm về chức năng, nhiệm vụ hoạt động của quân đội mà nội dung kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh có những nét riêng biệt, thể hiện ở những điểm sau đây:

Thứ nhất, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, kịp thời và kiên quyết đập tan mọi hành động xâm lược của kẻ thù, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân có điều kiện an ninh thuận lợi để phát triển.

Thứ hai, bảo vệ nền kinh tế, bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi chưa có chiến tranh, lực lượng vũ trang phải cùng với các ngành kinh tế tạo ra những điều kiện và phương tiện cần thiết để bảo vệ vững chắc các cơ sở kinh tế, các khu vực kinh tế và các nguồn tài nguyên của đất nước. Khi chiến tranh xảy ra, các lực lượng vũ trang phải chiến đấu có hiệu quả, bảo vệ tiềm lực kinh tế, kỹ thuật của đất nước, bảo vệ các cơ sở sản xuất và nguồn dự trữ, đáp ứng nhu cầu dân sự và quân sự.

Thứ ba, sẵn sàng bảo vệ hoạt động kinh tế đối ngoại. Các lực lượng quân đội và công an phải cùng các cấp, các ngành phối hợp chặt chẽ, có nguyên tắc, để một mặt, tạo ra môi trường thuận lợi, thông thoáng cho các hoạt động kinh tế đối ngoại; mặt khác, vẫn giữ được an ninh và chủ quyền quốc gia, chặn đứng được các thủ đoạn lợi dụng kinh tế đối ngoại để hoạt động phá hoại.

Thứ tư, lực lượng vũ trang tích cực đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác; vận động quần chúng phát hiện, đấu tranh không khoan nhượng chống các hiện tượng tiêu cực, thói cửa quyền, hách dịch, hối lộ,…; phối hợp giữa lực lượng quân đội và công an, toà án, thuế vụ, hải quan đấu tranh ngăn chặn kịp thời các hành vi tiêu cực nhằm làm trong sạch bộ máy nhà nước và ổn định các hoạt động kinh tế xã hội.

8. Kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá và đối ngoại quân sự.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa ngoại giao Nhà nước với hoạt động đối ngoại của Đảng và nhân dân; giữa đối ngoại với quốc phòng - an ninh, kinh tế, văn hoá và tư tưởng; giữa đối ngoại trung ương với địa phương để phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại Việt Nam trên trường quốc tế, kịp thời phát hiện và ứng phó hiệu quả với những tác động đa chiều của các diễn biến đối ngoại đối với quốc phòng - an ninh và phát triển của đất nước. Chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn, tổ chức quốc tế và khu vực, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc, đóng góp giải quyết các thách thức toàn cầu, phát huy ảnh hưởng quốc tế để phục vụ cho phát triển và quốc phòng - an ninh của Việt Nam. Giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ, lãnh hải trên cơ sở thương lượng hoà bình và luật pháp quốc tế, kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc./.