Để thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó
Thứ nhất, giảm thuế và giảm thiểu các chi phí, tổn thất cho doanh nghiệp trong quá trình tham gia và rút khỏi thị trường phải là một trong các khuyến nghị cần nhấn mạnh hàng đầu.
Bên cạnh kết quả bước đầu cải cách hành chính khá ấn tượng với việc rà soát và cắt giảm, cải thiện hàng ngàn quy trình quản lý và văn bản hành chính trực tiếp liên quan đến doanh nghiệp đang được tiến hành, cần giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và những chi phí sản xuất gắn với tiêu cực và tham nhũng trong quản lý nhà nước nhằm giảm chi phí sản xuất, giảm giá đầu ra, và do đó giảm áp lực lạm phát chi phí đẩy theo mục tiêu chung của Nghị quyết 11/NQ-CP.
Thứ hai, thắt chặt hơn nữa đầu tư công và điều hòa một phần vốn đầu tư công cho đầu tư của các khu vực và mục tiêu kinh tế khác.
Trước mắt, cần làm rõ được 3 yếu tố: tiêu chí, cơ chế thực hiện, kiểm soát lợi ích và các chế tài gắn liền việc cắt giảm, giãn tiến độ các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước và tín dụng đầu tư nhà nước. Đồng thời, sớm nghiên cứu chuyển một phần vốn tiết kiệm được hay bị thu hồi từ đầu tư công sai mục đích để tạo nguồn vốn bổ sung với lãi suất thấp, ưu đãi cho các tổ chức tín dụng và tài chính, có chính sách để tăng nguồn lực trực tiếp cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, vay phát triển nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ, nhất là hỗ trợ quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp.
Thứ ba, nghiên cứu điều chỉnh cách quản lý lãi suất ngân hàng vì lợi ích toàn cục, đồng thời phát triển thị trường vốn đa dạng hơn và có tính thị trường lành mạnh hơn.
Cả lý thuyết và thực tế đều cho thấy, lãi suất cần được thiết lập dựa chủ yếu vào mức lạm phát thực tế và chi phí hoạt động tối thiểu của ngân hàng; đồng thời, cần phục vụ mục tiêu quản lý dòng vốn tín dụng xã hội, yêu cầu thúc đẩy cạnh tranh và trạng thái thanh toán của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế có tính độc quyền và đầu cơ cao, cần duy trì và khống chế cả hai loại trần, nhất là trần lãi suất cho vay.
Trần lãi suất huy động chủ yếu là để bảo vệ các tổ chức tín dụng, chống cạnh tranh lãi suất không lành mạnh trong bối cảnh chưa có sự chuẩn hóa và bình đẳng giữa các ngân hàng và tổ chức tín dụng trên thị trường. Tuy nhiên, để bảo vệ các doanh nghiệp vay tín dụng và vì lợi ích ổn định vĩ mô chung thì trần lãi suất cho vay lại là cần thiết và có hiệu quả hơn. Trong bối cảnh hiện tại, việc duy trì trần lãi suất cho vay sẽ giúp các doanh nghiệp không bị xử ép và chạy đua “đấu giá” chịu vay lãi suất cao khi tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng với tư cách nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động của mình, trong khi chưa có sự bình đẳng về điều kiện và khả năng kinh doanh. Đồng thời, trần lãi suất cho vay cũng cần để hạn chế các ngân hàng và tổ chức tín dụng không phát động cuộc chạy đua cho vay lãi suất cao, tạo sự dồn ứ, tập trung dư nợ tín dụng vào các khu vực kinh doanh phi sản xuất, có tính đầu cơ cao, gây rủi ro cho bản thân các ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế, cũng như gây thiếu hụt nguồn tín dụng cho vay phát triển và ổn định cần thiết của các khu vực kinh tế - xã hội khác; ngoài ra, lại vừa giúp cho việc sử dụng vốn tín dụng đúng mục tiêu an toàn và đạt hiệu quả xã hội cao hơn theo yêu cầu quản lý nhà nước nói chung.
Thực tế hiện nay cho thấy, việc dỡ bỏ trần lãi suất cho vay sớm, trong khi giữ và khống chế trần lãi suất huy động thấp hơn mức lạm phát đã khiến các ngân hàng đứng trước cả 2 sức ép với tất cả các hệ lụy tiêu cực của chúng:
Thứ nhất, các ngân hàng chịu sức ép cạnh tranh về sức hấp dẫn nhằm duy trì ổn định nguồn vốn huy động. Do mức lãi suất huy động trần danh nghĩa thấp, không tuân theo nguyên tắc lãi suất thực dương, khiến các ngân hàng luôn phải tìm các chiêu “lách luật, lách trần”, tạo sự căng thẳng khả năng thanh khoản, buôn bán vốn lòng vòng, thiếu minh bạch và cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động tín dụng; tức gây cảnh “mất nhiều hơn được” khi theo đuổi các mục tiêu điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ hai, các ngân hàng chịu sức ép tìm kiếm khách hàng đủ sức chịu lãi vay cao, khiến dòng vốn tín dụng ngân hàng bị dồn tụ, tập trung thái quá bất chấp nguyên tắc an toàn vào một số khách hàng và lĩnh vực kinh doanh, nhất là cho vay phi sản xuất. Điều đó khiến rủi ro tín dụng gia tăng và chủ trương tập trung cho vay sản xuất, nhất là cho vay tái cơ cấu, phát triển nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ, cũng như cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ chỉ là lời hiệu triệu tốt đẹp hay an ủi tinh thần cho những người trong cuộc mà thôi. Hơn nữa, lãi suất cho vay quá cao đang khiến hệ thống doanh nghiệp trở nên nghẹt thở, mất khả năng cạnh tranh, nguy cơ thu hẹp sản xuất, vỡ nợ và giãn thợ, tạo sức ép xã hội tăng cao đang ngày một đậm nét… Vì vậy, việc tái lập và duy trì trần lãi suất cho vay và triển khai các biện pháp đồng bộ khác để bảo vệ các doanh nghiệp và duy trì năng lực, cũng như sự bình ổn lành mạnh thị trường tài chính và nền sản xuất xã hội đang trở nên hiện hữu, cấp thiết hơn.
Thứ ba, cơ chế quản lý tỷ giá VND phải tiếp tục và thực sự mềm dẻo, linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường, để không lặp lại cả tình trạng chênh biệt 2 tỷ giá kéo dài, cũng như những cú “sốc tỷ giá” lợi ít, hại nhiều.
Thứ tư, thông tin chính sách và doanh nghiệp cần minh bạch, cập nhật hơn, đa dạng, nhiều chiều hơn, bảo đảm dân chủ và tăng thêm vai trò phản biện xã hội của các hiệp hội và tổ chức xã hội.
Tăng cường quy chế phổ biến và trách nhiệm giải trình, cũng như bảo đảm chất lượng thông tin chính sách, phát ngôn chính thức, thông tin của doanh nghiệp, nhất là của doanh nghiệp nhà nước. Cần lưu ý rằng thông tin của Nhà nước chậm sẽ gây thiệt thòi cho doanh nghiệp.
Thứ năm, chủ động thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp, ngân hàng và đầu tư xã hội theo nguyên tắc thị trường, phát triển theo chiều sâu, hiện đại, bền vững.
Trong quá trình tái cơ cấu cần tôn trọng, vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trường, xem nhu cầu thị trường, cơ chế thị trường và hiệu quả là căn cứ chính để quyết định việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển; đồng thời, có biện pháp tích cực ngăn ngừa và khắc phục những hạn chế, mặt trái của cơ chế thị trường. Vì vậy, cần khẩn trương xây dựng Luật Quản lý vốn nhà nước hoặc Luật Đầu tư công nhằm tạo cơ sở pháp lý cần thiết điều chỉnh các hoạt động đầu tư công.
Không nên đóng khung sự phối hợp chính sách chỉ trong nội bộ các cơ quan chính phủ với các DNNN, mà cần gắn kết chặt chẽ, mở rộng dân chủ hóa với giới doanh nghiệp và viện, trường và các tầng lớp dân cư khác. Sử dụng chuyên gia trong nước và nước ngoài có trình độ và khách quan nhằm đánh giá, phản biện độc lập các tác động 2 mặt của dự án đầu tư công lớn. Làm tốt việc này sẽ hạn chế bớt những hoạt động đầu tư công gắn với lợi ích cục bộ.
Tái cơ cấu phải có tầm nhìn xa, không bị “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay “lợi ích nhóm” chi phối; đồng thời, cần có sự đổi mới quy trình và phương pháp thực hiện quy hoạch, đi từ yêu cầu và mục tiêu tổng thể chung của cả nước, đến các vùng lãnh thổ, rồi mới đến từng địa phương, cơ sở. Đặc biệt, cần khẩn trương xác định các tiêu chí và thứ tự ưu tiên làm căn cứ để tái cấu trúc tổ chức và quản lý DNNN, khắc phục tình trạng trì trệ hoặc lạm dụng, trục lợi, thậm chí tái cấu trúc kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” trong phân công chủ quản và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong chỉ đạo, điều hành… Cần xây dựng bộ tiêu thức phù hợp và chuẩn hóa để tạo căn cứ lựa chọn và thông qua các dự án theo lĩnh vực và yêu cầu đầu tư, mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường, cũng như các lợi ích quốc gia và địa phương, ngành, cụ thể và dài hạn. Phân biệt 2 loại mục tiêu và 2 loại tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư công - đầu tư vì lợi nhuận và đầu tư phi lợi nhuận, khắc phục sự nhập nhằng giữa nguồn vốn hoạt động vì lợi nhuận với nguồn vốn hoạt động phi lợi nhuận, cũng như giữa trách nhiệm xã hội của các tập đoàn kinh tế nhà nước đối với ổn định kinh tế vĩ mô với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh - điều dễ dẫn đến đầu tư của tập đoàn vừa bị phân tán, vừa dễ bị lạm dụng, kém hiệu quả.
Đặc biệt, kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính (Hội nghị Trung ương 3 yêu cầu hoàn thành trước năm 2015) và tập trung phát triển DNNN trong những ngành, lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các ngành kinh tế, kỹ thuật liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công, ổn định kinh tế vĩ mô. Nghiên cứu chỉnh sửa giảm tỷ trọng DNNN xuống dưới 10%, thậm chí bãi bỏ sớm quy định hiện nay về cho phép DNNN được phép đầu tư “trái ngành” tối đa 30% tổng nguồn vốn đầu tư, vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, mức vốn đầu tư công ty nhà nước không được vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức nhận góp vốn, nhưng mức vốn góp của công ty mẹ và công ty con trong tổng công ty, tập đoàn không vượt quá mức 30% vốn điều lệ của tổ chức nhận góp vốn…
Về cơ chế quản lý DNNN, cần thực hiện quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, bảo đảm công khai, minh bạch về tài chính. Đổi mới quản trị và cơ chế hoạt động của DNNN theo hướng chuyển sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường đối với những hoạt động kinh doanh vị lợi nhuận… Đặc biệt, trong phân cấp quản lý DNNN, cần thống nhất và rõ ràng, gắn với chịu trách nhiệm liên đới của từng tổ chức, cá nhân. Công khai các thông tin, quy trình, thủ tục, danh mục dự án, tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán các dự án đầu tư của DNNN.
Thứ sáu, tăng phát hiện và chế tài những vi phạm về giá cả, đầu cơ và lũng đoạn, chống lobby mang tính chất ngành và doanh nghiệp.
Cần có cơ chế mới ngăn chặn kiên quyết hơn và hiệu quả hơn những biểu hiện và hoạt động “lobby” chính sách và sự chi phối chính sách, kế hoạch và hoạt động đầu tư vì lợi ích nhóm, ngành, cục bộ và lối tư duy nhiệm kỳ, không phải vì lợi ích chung và sự phát triển quốc gia bởi khi có sự “lobby” ngành nào đó sẽ tạo ra sự lệch hướng hay thiếu thống nhất về chính sách của Chính phủ và gây thiệt hại chung cho xã hội.
Thực hiện nghiêm cho các khu vực doanh nghiệp tham gia rộng rãi, bình đẳng việc đấu thầu thực chất các dự án, đặc biệt là được tài trợ bằng các nguồn lực công, cũng như các hoạt động mua sắm chi từ nguồn đầu tư công, chứ không phải chỉ khép kín trong khu vực nhà nước với nhau.
Trong vấn đề kiểm soát thị trường, chú ý đến liều lượng, thời lượng, chính sách bổ trợ khi xây dựng và thực thi những giải pháp đã, đang và sẽ triển khai. Bất kỳ chính sách nào cũng có hai mặt của nó, vì vậy phải lưu ý dự báo trước, chuẩn bị trước phương án, xác định cơ chế phản hồi, phản biện, tiếp thu và không ngừng hoàn chỉnh, để phát huy mặt tích cực, giảm tiêu cực của các chính sách được lựa chọn.
Coi trọng hơn nữa việc phòng, chống tham nhũng, vì tham nhũng liên quan đến lạm phát, làm tăng chi phí của doanh nghiệp (trong lạm phát, mọi người càng cảm nhận được tính cấp thiết của điều này), làm lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, làm lệch các nguồn lực cần thiết vào những nơi cần thiết, giảm hiệu quả đầu tư công, giảm hiệu quả của chính sách, tăng áp lực của lạm phát và phát triển thiếu bền vững. Muốn vậy, Nhà nước cần xây dựng một cơ chế phòng, chống tham nhũng thực chất hơn, dân chủ hơn, kiên quyết và hiệu quả hơn, coi đây là một cơ hội mới tích cực mà lạm phát tạo ra nên được tận dụng./.
Hội thảo khoa học: Báo cáo kết quả các dự án điều tra năm 2012 của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia  (30/01/2013)
Vai trò của quần chúng, nhân dân Trị Thiên - Huế trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968  (30/01/2013)
Bộ trưởng Trần Đại Quang thăm và chúc Tết tại Ninh Bình  (29/01/2013)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên