Ngoại thương Việt Nam: Vị thế mới sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
TCCS - Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, ngành ngoại thương Việt Nam đạt được nhiều kết quả nổi bật. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, để phát triển ngoại thương Việt Nam hiệu quả, bền vững trong thời gian tới, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp.
Thực trạng ngoại thương Việt Nam sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
Khái quát kết quả nổi bật
Một là, trong suốt chặng đường gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt từ khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007, việc mở cửa nền kinh tế và tăng cường hoạt động ngoại thương đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của nhân dân. Hoạt động ngoại thương đã phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu nổi bật trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Việt Nam đã có sự tăng trưởng thương mại rất ngoạn mục, từ vị trí thứ 39 vào năm 2009, đến năm 2023 vươn lên vị trí thứ 11 trong bảng xếp hạng 15 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Việt Nam được đánh giá là nhân tố bất ngờ của thương mại thế giới(1). Đặc biệt, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở cao nhất thế giới. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam năm 1986 chỉ khoảng 8 tỷ USD và xếp thứ 9/10 trong khu vực Đông Nam Á tăng lên hơn 476,3 tỷ USD năm 2024, tăng khoảng 58 lần, trong đó GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 USD, tăng 64 lần so với những năm đầu đổi mới.

Sự phát triển của ngoại thương không chỉ tạo ra tăng trưởng kinh tế, mà còn cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Từ một quốc gia thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và nâng cao đời sống nhân dân. Việc thúc đẩy xuất khẩu hàng công nghiệp đã tạo ra hàng triệu việc làm, giúp nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống người lao động. Ngoài ra, chỉ số phát triển xã hội cũng có sự cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống 1,9% vào năm 2024. Kết cấu hạ tầng và dịch vụ công cộng được nâng cấp, với hầu hết xã nông thôn đều có điện lưới, trường học và trạm y tế.
Không chỉ vậy, ngoại thương đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển bền vững. Việc tiếp cận thị trường quốc tế với tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội đã thúc đẩy nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện điều kiện làm việc và bảo đảm tiêu chuẩn an toàn. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho nền kinh tế, mà còn giúp cải thiện điều kiện sống và làm việc của người lao động, thúc đẩy sự phát triển đồng đều và bền vững.
Hai là, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, ngoại thương góp phần đưa Việt Nam ngày càng có tiếng nói và vị thế cao hơn trong quan hệ kinh tế quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Trước đây, hoạt động ngoại thương chủ yếu diễn ra theo hình thức trao đổi hàng hóa thông qua các nghị định thư với các nước thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh tế, chủ yếu là Liên Xô cũ và do Nhà nước độc quyền kiểm soát. Tuy nhiên, nhờ vào quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã từng bước mở rộng giao thương với hầu hết quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 19 quốc gia là đối tác chiến lược (9 nước là đối tác chiến lược toàn diện). Điều này không chỉ khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn tạo ra một mạng lưới đối tác rộng lớn, giúp Việt Nam có thêm nhiều cơ hội để tham gia các hoạt động kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng đã có quan hệ kinh tế và thương mại với hơn 230 đối tác và hợp tác với hàng trăm tổ chức quốc tế, mở ra cơ hội mới cho sự phát triển.
Cùng với đó, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với hầu hết nền kinh tế lớn trên thế giới, phủ rộng khắp các châu lục. Đến nay, Việt Nam là thành viên tích cực của gần 70 tổ chức khu vực và quốc tế; đã và đang tham gia 20 FTA, bao gồm 18 FTA đã ký kết (trong đó 17 FTA đã có hiệu lực thực thi) với trên 60 đối tác FTA, phủ rộng khắp các châu lục, tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu và đang đàm phán 2 FTA. Sự hội nhập sâu rộng này đã giúp nâng tầm vị thế của Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới quan hệ đối tác của các quốc gia trên thế giới.
Với nền tảng vững chắc từ quá trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và một quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045. Các bước đi chiến lược trong ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tiếp tục là động lực chính giúp đất nước phát triển mạnh mẽ, cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng một xã hội thịnh vượng, bền vững hơn.
Ba là, trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa liên tục được mở rộng và duy trì mức tăng trưởng cao trong nhiều năm, tạo thế cho ngoại thương Việt Nam phát triển theo chiều sâu.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, nhất là việc tham gia các FTA đã và đang mở rộng cánh cửa thị trường cho hàng hóa xuất, nhập khẩu của Việt Nam, là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh việc kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu. Đặc biệt, trong bối cảnh hậu đại dịch COVID-19, các FTA thế hệ mới mở ra nhiều cơ hội cho kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi sau đại dịch thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Từ một nền kinh tế nhìn chung chỉ giới hạn trong mối quan hệ với các nước thuộc Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV), WTO ghi nhận Việt Nam trở thành một nền kinh tế có độ mở cao (gần 200% GDP); đồng thời, là nền kinh tế có mức độ hội nhập toàn cầu khi trở thành đối tác thương mại lớn thứ 20 thế giới. Đến năm 2023, theo số liệu của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu lớn thứ 15 thế giới (chiếm 1,95% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới); nước nhập khẩu lớn thứ 21 thế giới (chiếm 1,42% tổng kim ngạch nhập khẩu của thế giới). Quy mô tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa không ngừng gia tăng, với tốc độ tăng trưởng bình quân 15,83%/năm (năm 2024 đạt gần 800 tỷ USD, cao nhất trong 40 năm qua, tăng 15,4% so với năm trước và vượt gần 3 lần kế hoạch được giao), đóng góp quan trọng và là một trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế đất nước.
Xuất khẩu hàng hóa đã trở thành một trong ba trụ cột của tăng trưởng kinh tế, bên cạnh đầu tư và tiêu dùng trong nước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 1991 xuất khẩu hàng hóa mới chỉ chiếm 26,2% GDP, đến năm 2023 tăng lên 82,6% GDP và 86,2%GDP vào năm 2024, góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho hàng triệu người lao động, cải thiện đời sống của người dân, xóa đói, giảm nghèo. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nước ta đã lần đầu cán mốc trên 400 tỷ USD. Đây có thể coi là một cột mốc mang tính lịch sử đáng ghi nhận nhất là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn rất nhiều khó khăn, cản trở xuất khẩu như lạm phát giảm chậm, chính sách tiền tệ thắt chặt từ những năm trước tiếp tục duy trì đến hết Quý 3-2024 mới được nới lỏng một phần, chuỗi cung ứng toàn cầu, các luồng vận tải trọng yếu luôn đứng trước nguy cơ đứt gãy, gián đoạn do xung đột địa - chính trị ở nhiều nơi trên thế giới.
Cán cân thương mại hàng hóa được cải thiện mạnh mẽ, chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu kể từ năm 2013 và sau đó duy trì vị thế xuất siêu liên tiếp trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay. Cũng theo Tổng cục Thống kê, từ năm 2016 đến năm 2024, cán cân thương mại của Việt Nam luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm: từ 1,77 tỷ USD (năm 2016) lên 2,1 tỷ USD (năm 2017), 6,8 tỷ USD (năm 2018), 10,9 tỷ USD (năm 2019); năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn đạt mức xuất siêu gần 20 tỷ USD; đến năm 2024, cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp với mức xuất siêu đạt 24,77 tỷ USD, góp phần tích cực cho cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế. Đáng chú ý, xuất khẩu khu vực kinh tế trong nước năm 2024 có sự phục hồi tốt với kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước đạt khoảng 113,7 tỷ USD, tăng 18,9% so với năm trước, cao hơn mức tăng trưởng của khu vực FDI (đạt khoảng 290 tỷ USD, tăng 11,9%).
Bốn là, xuất khẩu tăng trưởng mạnh về quy mô; chất lượng tăng trưởng xuất khẩu được cải thiện đáng kể.
Nhìn lại tiến trình lịch sử, nền kinh tế nước ta đã mất nhiều năm để vượt mốc xuất khẩu 100 tỷ USD vào năm 2012, rồi từ đó phải mất thêm 5 năm để vượt mốc 200 tỷ USD vào năm 2017 và mất thêm 4 năm để vượt mốc 300 tỷ USD vào năm 2021. Nhưng đến 2024, chỉ sau 3 năm, kim ngạch xuất khẩu nước ta đã tăng thêm 100 tỷ USD, lần đầu cán mốc lịch sử trên 400 tỷ USD.
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam được mở rộng theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế. Thị trường xuất khẩu đã được mở rộng nhanh, cơ cấu thị trường đã có sự chuyển dịch tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế. Năm 1995, thị trường châu Á chiếm tỷ trọng rất cao, tới 75,3%, châu Mỹ chiếm 4,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu; đến năm 2023 tỷ trọng thị trường châu Á giảm xuống còn 48,8%, thị trường châu Mỹ tăng lên 31,8%. Hiện nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu được cải thiện đáng kể, giá xuất khẩu tăng và dần tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trước đây, Việt Nam tập trung nhiều vào xuất khẩu dựa vào ngành thâm dụng lao động và tài nguyên, phát huy lợi thế về lao động và chi phí sản xuất thấp, như gỗ, than, quặng, nguyên liệu thô. Số liệu thống kê cho thấy, khối lượng xuất khẩu tăng 10 lần trong vòng 20 năm đầu đổi mới, nhưng giá trị trung bình cho mỗi đơn vị xuất khẩu chỉ tăng hai lần. Đến nay, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu được cải thiện theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng hàng nguyên liệu thô, sơ chế; hàng hóa xuất khẩu được mở rộng về quy mô, đa dạng, phong phú về chủng loại và phát triển thêm nhiều mặt hàng mới, góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Năm là, đối với nhập khẩu, từ chỗ chúng ta chủ yếu nhập khẩu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trực tiếp sang nhập khẩu phục vụ cho đầu tư, sản xuất, chế biến sản phẩm phục vụ xuất khẩu.
Nhìn chung, trong thời kỳ thực hiện Chiến lược xuất, nhập khẩu giai đoạn 2011 - 2020, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu luôn thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu như mục tiêu đề ra, theo đó tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa bình quân đạt 11,9%/năm. Nhập khẩu hàng hóa tăng trưởng hợp lý, cơ cấu hàng hóa nhập khẩu chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng máy móc, thiết bị, giảm tỷ trọng hàng tiêu dùng, tập trung chủ yếu ở nhóm hàng cần thiết đáp ứng nhu cầu sản xuất và dự án đầu tư trong nước (như nguyên, phụ liệu, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu), công tác kiểm soát nhập khẩu được thực hiện tốt. Cụ thể, năm 1995 tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị chiếm 25,7% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, đến năm 2023 tăng lên 43,1%; còn tỷ trọng nhóm hàng tiêu dùng giảm tương ứng từ 15,2% xuống còn 11,1%. Tính riêng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 379,6 tỷ USD, tăng 16,3% so với năm 2023, chủ yếu để phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Việc nhập khẩu các mặt hàng linh kiện, máy móc, nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất tăng trưởng trở lại cho thấy sự phục hồi của hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế, cũng như tín hiệu tích cực về đơn hàng nhận được trong thời gian tới.
Việt Nam có cơ hội nhập khẩu công nghệ hiện đại, tiếp nhận chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến từ các nước công nghiệp phát triển là các FTA mà nước ta là thành viên, từ đó cải thiện trình độ công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tạo động lực cho phát triển sản xuất trong nước và tăng cường xuất khẩu hàng hóa đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng của nước nhập khẩu.
Sáu là, quản lý nhà nước về ngoại thương có bước tiến quan trọng, từng bước hình thành hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, kinh doanh xuất, nhập khẩu.
Đáng chú ý là sự ra đời của các luật, như Luật Thương mại, Luật Hải quan, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế xuất, nhập khẩu, Luật Quản lý ngoại thương,… và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, từ đó tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ngoại thương phát triển, đồng thời tạo môi trường pháp lý công khai, minh bạch, khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp xuất, nhập khẩu.
Ngoại thương phát triển cùng việc thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã giúp cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam. Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), trong 10 năm, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam đã cải thiện được 13 bậc, từ thứ hạng 68/131 vào năm 2007 lên 55/137 vào năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Năm 2019, WEF đã nâng hạng GCI của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp thứ 67/141 nền kinh tế. Do đại dịch COVID-19, từ năm 2020 đến nay, các đánh giá và báo cáo xếp hạng GCI và Cơ sở dữ liệu thực hiện kinh doanh (Doing business) không được công bố chi tiết như các năm trước đây.
Nhìn lại chặng đường gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, trong suốt quá trình chuyển mình từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp, kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với tư duy tiếp cận và cách làm sáng tạo nổi bật, riêng có của mình, ngoại thương Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đóng góp quan trọng, tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Một số hạn chế
Thứ nhất, tăng trưởng xuất khẩu đạt tốc độ cao, nhưng chưa thật sự bền vững… Tỷ trọng xuất khẩu, xuất siêu sang một số thị trường lớn ngày càng tăng cao có thể khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước biện pháp phòng vệ thương mại hoặc cú sốc từ bên ngoài.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chưa hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; năng lực cạnh tranh và hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản phẩm chưa cao; tỷ trọng sản phẩm chế biến, chế tạo có giá trị gia tăng cao còn thấp vì nhóm hàng chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu làm gia công, lắp ráp cho nước ngoài (dệt may, da giày, hàng điện tử, điện thoại).
Thứ ba, đó là sự mất cân đối về cơ cấu doanh nghiệp xuất khẩu, còn phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong khi chúng ta chưa tạo dựng được các tập đoàn kinh tế có quy mô đủ mạnh và tầm ảnh hưởng lớn, có khả năng dẫn dắt nền kinh tế. Xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn FDI luôn dẫn đầu và đóng góp lớn trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn 1995 - 2023, từ 27,03% năm 1995 tăng lên 70,60% năm 2015 và lên tới 73,1% năm 2023. Trong năm 2024, mặc dù tốc độc tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI thấp hơn khu vực doanh nghiệp trong nước, nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp khu vực này vẫn tăng 12,3%, đạt 290,94 tỷ USD, chiếm 71,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Thứ tư, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu còn thấp, nhất là đối với mặt hàng chế biến, chế tạo. Hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản phẩm xuất khẩu chưa cao; khả năng, năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam còn hạn chế.
Thứ năm, phát triển xuất khẩu chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nước nhập khẩu, đặc biệt là thị trường quan trọng với yêu cầu cao. Điều này khiến cho hàng xuất khẩu đứng trước rủi ro có thể bị hạn chế nhập khẩu. Xuất, nhập khẩu tăng trưởng nhanh góp phần phát triển kinh tế, tạo thêm việc làm cho người lao động và nâng cao mức sống của người dân. Tuy vậy, cơ hội tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu và việc thụ hưởng thành quả từ tăng trưởng xuất khẩu còn chưa đồng đều giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI; giữa người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ sáu, chúng ta vẫn chưa xây dựng được doanh nghiệp đạt tầm khu vực, có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực then chốt, có vị thế, vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu và có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn.
Nguyên nhân của hạn chế
Một là, xuất phát từ vấn đề nội tại trong nước, có thể thấy Việt Nam chưa tận dụng tốt cơ hội mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đem đến trong khi chúng ta phải giải quyết nhiệm vụ phát triển “kép”, vừa hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi sang kinh tế thị trường hoàn chỉnh, vừa xây dựng nền kinh tế hiện đại trong một thời gian có hạn, do đó nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn rất lớn.
Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa thực sự dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao.
Những yếu tố đầu vào cơ bản của nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế và chậm phát triển, đó là nguồn lực tài chính, vốn đầu tư, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực phát triển; kết cấu hạ tầng tuy được quan tâm tăng cường đầu tư nâng cấp, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, công nghệ sản xuất chậm được đổi mới; chất lượng nguồn nhân lực chậm được cải thiện, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và có kỹ năng, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập trong bối cảnh mới.
Đối với thị trường trong nước, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế càng nhanh, càng rộng thì áp lực cạnh tranh đối với sản xuất trong nước càng lớn, trong khi năng lực sản xuất trong nước cải thiện còn chậm, đặc biệt là ở các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ.
Mặc dù hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho Việt Nam cơ hội thu hút dòng vốn FDI, song năng lực kiểm soát, điều tiết và quản lý dòng vốn còn hạn chế, khiến hiệu quả của dòng vốn FDI chưa cao; các vấn đề là mặt trái của thu hút vốn FDI, như ô nhiễm môi trường, chuyển giá, thất thu thuế, tác động lan tỏa yếu,… tuy đã được chú trọng khắc phục, nhưng chưa triệt để, hiệu quả sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) còn thấp, do đó tạo nên thách thức không nhỏ đối với ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển ngoại thương Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, nguyên nhân từ bên ngoài, bao gồm sự thay đổi, điều chỉnh trong chính sách quản lý nhập khẩu, tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhất là các quy định, tiêu chuẩn nhập khẩu rất nghiêm ngặt và thay đổi theo hướng ngày càng nghiêm ngặt hơn của thị trường nước đối tác về chất lượng, an toàn thực phẩm, quy tắc xuất xứ, các quy định về bảo vệ môi trường... đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra thách thức không nhỏ đối với phát triển xuất khẩu của Việt Nam, khi mà quy trình sản xuất và kiểm định chất lượng trong một số ngành còn chưa đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt của thị trường nhập khẩu, khả năng ứng phó, vượt rào cản của doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế.
Bên cạnh rào cản về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng và môi trường, nguy cơ doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt các biện pháp phòng vệ thương mại, chống bán phá giá, chống trợ cấp trên các thị trường nhập khẩu là rất lớn. Áp lực cạnh tranh trước hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài trên các thị trường nhập khẩu chính, như Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Nhật Bản ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, Việt Nam chưa ký kết được các hiệp định thương mại tự do/hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với các nước, khu vực còn nhiều tiềm năng, khiến thị trường xuất, nhập khẩu vẫn chủ yếu tập trung vào một số thị trường lớn, truyền thống.

Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm phát triển ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh mới
Bối cảnh mới
Chặng đường gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 - 2024) của Việt Nam ghi dấu hành trình chuyển mình của hoạt động ngoại thương với nhiều thành tựu nổi bật, góp phần mang lại đổi thay đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, an ninh, quốc phòng. Từ một nước kém phát triển, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về quy mô, mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện. Việt Nam đã dần hội nhập sâu rộng với thế giới và có quan hệ tốt với cộng đồng quốc tế, ký kết và thực thi nhiều FTA song phương, đa phương và tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Đây là nền tảng để kỳ vọng đất nước bước lên nấc thang phát triển cao hơn trong các thập niên tiếp theo.
Ở trong nước, Việt Nam trải qua nhiều khó khăn lớn do hệ quả từ chiến tranh và cấm vận kinh tế. Trên bình diện quốc tế, Việt Nam cũng không thể tránh khỏi tác động từ bối cảnh toàn cầu đầy biến động như các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính, bất ổn địa - chính trị và xung đột ở nhiều khu vực. Tuy nhiên, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam không những đã vượt qua, phá bỏ thế bị bao vây, cấm vận, mà còn xây dựng lại thành công nền kinh tế theo hướng hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới. Mặc dù vẫn còn đó bài toán cần giải quyết về việc kết cấu hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực và công nghệ, nhưng nền ngoại thương Việt Nam đã góp phần xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc để đất nước có thể phát triển trong một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc để sánh vai cùng bạn bè thế giới, như Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã định hướng.
Bối cảnh khu vực và quốc tế thời gian tới vẫn đang cho thấy diễn biến phức tạp, khó lường, đặt ra khó khăn, thách thức đối với Việt Nam trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và tiến lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng phát triển ngoại thương
Thứ nhất, phát triển ngoại thương trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030: Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo động lực, truyền cảm hứng cho cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, đặc biệt là cho thế hệ trẻ Việt Nam xung kích đi đầu, vươn lên mạnh mẽ, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn với ngoại lực và sức mạnh thời đại.
Thứ hai, định hướng phát triển hoạt động ngoại thương phải phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược ngoại thương trong từng thời kỳ do Chính phủ ban hành; các chính sách, biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương phải được thực hiện hiệu quả, có sự phối hợp với các biện pháp thúc đẩy và thu hút đầu tư trong nước và vốn FDI, chú trọng chính sách về tín dụng, đẩy mạnh xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy hoạt động ngoại thương, mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu, hỗ trợ xây dựng, bảo vệ, phát triển và quảng bá thương hiệu hàng Việt Nam.
Thứ ba, khuyến khích tổ chức, cá nhân kinh doanh trong nước và nước ngoài tham gia phát triển hoạt động ngoại thương phù hợp với quy định của pháp luật quốc gia và quốc tế; phát triển nhanh, hài hòa các khu vực kinh tế và loại hình doanh nghiệp, thúc đẩy và tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân, coi đó thực sự là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế; xây dựng thể chế liên kết phát triển vùng, phát huy tối đa lợi thế của vùng, miền, phát triển liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI; chú trọng phát triển hình thái, lĩnh vực kinh tế mới, như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, các ngành công nghiệp, dịch vụ mới, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, bên cạnh việc chú trọng đầu tư phát triển các ngành sản xuất chế biến, chế tạo có quy mô lớn, như linh kiện điện tử, da giày, dệt may,...
Thứ tư, quán triệt quan điểm đã nêu trong Quyết định số 493/QĐ-TTg, ngày 19-4-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược xuất, nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030”, cụ thể:
Phát triển xuất, nhập khẩu bền vững trên cơ sở hài hòa về cơ cấu hàng hóa, cơ cấu thị trường và cán cân thương mại với từng thị trường, khu vực thị trường; hài hòa giữa mục tiêu ngắn hạn và dài hạn; hài hòa cơ hội tham gia và hưởng thụ thành quả tăng trưởng xuất, nhập khẩu; gắn với thương mại xanh và thương mại công bằng, với bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phát triển xuất, nhập khẩu hàng hóa gắn với đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, phát triển nền sản xuất xanh, sạch, bền vững, tuần hoàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nâng cao hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản phẩm xuất khẩu; xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.
Phát triển xuất, nhập khẩu gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh, khai thác hiệu quả cơ hội và hạn chế tác động của thách thức trong thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.

Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ các cấp, các ban, bộ, ngành và địa phương, doanh nghiệp về hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục xây dựng, củng cố và phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với các quốc gia trên thế giới thông qua thực thi hiệu quả cam kết trong các FTA song phương, đa phương và FTA thế hệ mới, từ đó đẩy mạnh xuất, nhập khẩu và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Hai là, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thể chế, xác định đây là nhiệm vụ “đột phá của đột phá”, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, khả thi để thực hiện đầy đủ, tương thích với nghĩa vụ, cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời thúc đẩy thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, năng lượng và thương mại. Đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, tăng cường quản lý nhà nước trong tổ chức hoạt động xuất, nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi thương mại, chống gian lận thương mại và hướng tới thương mại công bằng. Đẩy nhanh việc xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực, bao gồm tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, vệ sinh, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc xuất xứ, các tiêu chuẩn xã hội và môi trường. Hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng và đạt các chứng chỉ về tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn của các thị trường mục tiêu.
Tiếp tục rà soát quy định pháp lý về phòng vệ thương mại, quản lý cạnh tranh, phát triển bền vững, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, mua sắm Chính phủ..., vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, doanh nghiệp, người lao động, vừa phù hợp với cam kết trong các điều ước quốc tế về thương mại.
Ba là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển sản phẩm, ngành hàng cụ thể; nâng cao hiệu quả thực thi chiến lược, quy hoạch, đề án, kế hoạch nhằm phát triển sản xuất, tạo nguồn cung bền vững cho xuất khẩu trong các ngành sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp gắn với thực hiện chuyển đổi số, đặc biệt là trong các ngành chế biến, chế tạo nhằm tạo sự bứt phá và động lực mới cho tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu. Tiếp tục thúc đẩy cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với phát triển nền sản xuất xanh, sạch, bền vững. Phát triển công nghệ bảo quản để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông sản chế biến; chú trọng thực hiện tốt việc triển khai, áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc nông sản, thủy sản xuất khẩu, góp phần đáp ứng yêu cầu xuất khẩu chính ngạch.
Bốn là, đẩy mạnh xúc tiến thương mại nhằm phát triển thị trường xuất, nhập khẩu, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia cho sản phẩm, ngành hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Tăng cường công tác theo dõi, nghiên cứu thị trường, dự báo, cập nhật thay đổi về chính sách thương mại, rào cản phi thuế quan tại thị trường xuất khẩu. Hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới có tính tự chủ, tham gia hiệu quả, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao khả năng chống chịu trước tác động lớn, bất thường từ bên ngoài.
Năm là, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực về tài chính, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo cho phát triển xuất khẩu nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cấp kết cấu hạ tầng kho vận, giảm chi phí logistics, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thực sự trở thành động lực cho phát triển ngoại thương. Kêu gọi tập đoàn lớn, đa quốc gia tham gia đầu tư dự án sản xuất xuất khẩu, ưu tiên dự án có quy mô lớn, công nghệ hiện đại, sản phẩm có tính cạnh tranh cao và có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Sáu là, tăng cường quản lý và kiểm soát nhập khẩu đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất trong nước và hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý. Hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực cho cơ quan điều tra về phòng vệ thương mại; tăng cường hiệu quả và cơ chế phối hợp liên ngành trong quá trình xử lý vụ việc phòng vệ thương mại; đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền về phòng vệ thương mại cho cán bộ quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội và tổ chức liên quan.
Bảy là, đẩy mạnh tiến độ đàm phán, ký kết FTA/hiệp định đối tác kinh tế toàn diện song phương và đa phương mới với các nước, khu vực còn nhiều tiềm năng, dư địa (như ở khu vực Nam Á, Trung Đông, châu Phi). Nghiên cứu xây dựng chiến lược mới về tham gia các thỏa thuận thương mại tự do theo hướng thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế theo chiều sâu, hiệu quả, thiết thực gắn với bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc. Tiếp tục phát huy tốt vai trò của hệ thống cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài nhằm tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, địa phương khai thác hiệu quả các FTA mà Việt Nam là thành viên để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu bền vững.
Tám là, nâng cao vai trò của hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp hạt nhân, thúc đẩy hình thành các chuỗi giá trị xuất khẩu quy mô lớn. Phát triển doanh nghiệp khu vực tư nhân, nỗ lực khắc phục, giảm thiểu tác động của rào cản và các biện pháp phòng vệ thương mại tại thị trường nước ngoài. Tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp có vốn FDI với doanh nghiệp vốn trong nước, tạo tính lan tỏa, cùng liên kết, hợp tác và phát triển. Phát huy vai trò hiệp hội ngành hàng là cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp trong giao dịch thương mại quốc tế.
***
Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khi thế giới đang chứng kiến sự chuyển mình về khoa học - công nghệ và các xu hướng hội nhập quốc tế, ngoại thương tiếp tục đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và vươn mình của quốc gia. Trong bối cảnh Việt Nam khát vọng vươn mình thành một quốc gia thu nhập cao và phát triển bền vững, ngoại thương chính là chìa khóa mở cở cho thành công. Ngoại thương không chỉ là câu chuyện kinh tế, mà còn mở rộng những cầu nối văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫu dài giữa các quốc gia và dân tộc.
Trong phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh rằng, với thế và lực đã tích lũy được sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam cần đề ra định hướng chiến lược để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực và tranh thủ ngoại lực, nhằm đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Với tinh thần đó, ngành ngoại thương Việt Nam quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, thách thức, phát triển hiệu quả, bền vững trong thời gian tới ./.
-----------------------------------
(1) An An: Việt Nam là một trong 15 nước có dòng thương mại lớn nhất trên thế giới, Tạp chí Tuyên giáo, ngày 3-12-2024, https://tuyengiao.vn/viet-nam-la-mot-trong-15-nuoc-co-dong-thuong-mai-lon-nhat-tren-the-gioi-158215
- Quốc hội tiếp tục kế thừa, đổi mới và phát triển hoạt động lập hiến trong giai đoạn hiện nay
- Cơ chế hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam
- Ngoại thương Việt Nam: Vị thế mới sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Ngoại giao đa phương đưa đất nước hội nhập toàn diện và sâu rộng trong thời đại mới
- Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam