Dịch bệnh COVID-19 và chính sách tài khóa của Việt Nam
TCCS - Dịch bệnh COVID-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Năm 2021 là năm mà nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, song cũng là năm khẳng định khả năng của Việt Nam trong việc linh hoạt thích ứng, từng bước phục hồi các hoạt động kinh tế - xã hội trong bối cảnh bình thường mới. Có được những kết quả đó là nhờ chính sách tài khóa đã được sử dụng nhằm hạn chế tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19 đến nền kinh tế.
Kinh tế Việt Nam trong bối cảnh mới
Dịch bệnh COVID-19 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam. Tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) trong quý III-2021 của cả nước giảm tới 6,17% so với cùng kỳ năm 2020, là mức giảm sâu nhất từ năm 2000 đến nay. GDP trong 9 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm 2020. Toàn bộ nền kinh tế chịu thiệt hại 346.000 tỷ đồng. Đó là hệ quả của việc hoạt động sản xuất bị đình trệ, chuỗi cung ứng đứt gãy, sức mua giảm mạnh. Tỷ lệ thất nghiệp, doanh nghiệp đóng cửa tăng cao. Hơn 1,7 triệu người trong độ tuổi lao động thất nghiệp trong quý III-2021 tăng 0,5 triệu so với quý II-2021. Tỷ lệ thất nghiệp lên đến 3,98%, với 12 triệu người bị cắt giảm giờ làm; 18,9 triệu người bị giảm thu nhập. Doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn khi hoạt động và tình trạng giải thể đóng cửa doanh nghiệp ở mức cao. Bình quân mỗi tháng khoảng 9.700 doanh nghiệp phải ngừng kinh doanh hoặc giải thể. Chuỗi cung ứng tắc nghẽn đã làm hạn chế kết nối, nền kinh tế bị đứt gãy ở cả cung lẫn cầu. Chuỗi cung ứng hàng hóa tiêu dùng bị đứt gãy ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân; đồng thời, chuỗi cung ứng nguyên vật liệu đứt gãy đã làm nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ sụp đổ. Từ giữa năm 2021, giá cả hàng hóa tăng cao gây sức ép lên lạm phát, hàng loạt sản phẩm thiết lập mặt bằng giá mới, nhất là dầu thô. Với vai trò là nguồn nguyên liệu chính cung cấp năng lượng cho thế giới, sự biến động giá của dầu thô có tác động mạnh mẽ đến các nền kinh tế và thị trường hàng hóa toàn cầu. Ở Việt Nam, sau những đứt gãy chuỗi cung ứng do giãn cách xã hội kéo dài, nhu cầu tiêu dùng đã phục hồi, trong khi đó, nguồn cung lại bị gián đoạn, dẫn đến thiếu hụt. Mặt khác, chính sách nới lỏng tiền tệ của Mỹ và các nước khác đưa ra nhằm hồi sinh nền kinh tế đã tạo sức ép lạm phát sang các nước khác, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, áp lực lạm phát năm 2022 là rất lớn do đà tăng giá trên thị trường thế giới.
Do các nền kinh tế dần hồi phục sau dịch bệnh COVID-19, nhu cầu hàng hóa trong nước và hàng hóa xuất khẩu đều gia tăng, nhiều lĩnh vực phát triển mạnh mẽ. Chứng khoán tăng trưởng kỷ lục. VN-Index chinh phục kỷ lục mới với 1.500 điểm, chỉ số này tăng 34% trong năm. Mặt bằng lãi suất thấp là lý do tạo nên sự bùng nổ cho thị trường chứng khoán năm 2021, tuy nhiên từ đó cũng dấy lên nỗi lo bong bóng tài sản khi áp lực lạm phát năm 2022 đang rất lớn.
Đại dịch COVID-19 cũng tạo bước nhảy vọt trong chuyển đổi số, thúc đẩy kinh tế thực sang kinh tế số nhanh chóng. Trong một thời gian ngắn, các mô hình kinh doanh đều thay đổi nhanh chóng. Mục tiêu quốc gia “không tiền mặt” đang dần được thực hiện. Việt Nam hiện có gần 70 triệu tài khoản internet, có thể tận dụng nhiều cơ hội từ các dịch vụ số và đẩy nhanh tiến trình số hóa. Công nghệ thông tin giúp Chính phủ Việt Nam nâng cao năng lực trong bối cảnh mới, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của gián đoạn xã hội, giúp tạo sự kết nối hiệu quả hơn.
Tuy bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19, song với những nỗ lực điều tiết nền kinh tế của Chính phủ, Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng dương đạt 2,58% trong năm 2021. Đặc biệt, quý IV-2021 có sự hồi phục đáng kể, kim ngạch xuất khẩu đạt kỷ lục mới, vào Top 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, khu vực dịch vụ tăng 1,22%.
Hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa tiếp tục là điểm sáng của nền kinh tế. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020. Năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng đạt kết quả tích cực. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20-12-2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020.
Đăng ký doanh nghiệp trong quý IV-2021 đã có sự khởi sắc, trong 3 tháng cuối của năm 2021, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt 31.400 doanh nghiệp với số vốn đăng ký 415.300 tỷ đồng và số lượng lao động đăng ký là 205.100 lao động, tăng 70,4% về số doanh nghiệp, tăng 64,1% về doanh nghiệp số vốn đăng ký và tăng 24,7% về số lao động so với quý III-2021. Hoạt động thương mại, vận tải trong nước, khách du lịch quốc tế dần khôi phục trở lại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong quý IV-2021 tăng 28,1% so với quý III-2021, ước đạt 1,3 triệu tỷ đồng. Tính chung năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 4,79 triệu tỷ đồng.
Các doanh nghiệp đã chủ động thích ứng với trạng thái “bình thường mới”, ổn định sản xuất, kinh doanh. Nhờ sự nỗ lực của doanh nghiệp và những tác động từ các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, doanh nghiệp đã khắc phục được khó khăn, khôi phục sản xuất trở lại và mang lại kết quả kinh doanh khá tích cực. Điều này cũng giúp nguồn thu ngân sách của Nhà nước sớm đạt mục tiêu đặt ra. Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2021 đạt 1.523.400 tỷ đồng, bằng 113,4% dự toán năm (tăng 180.100 tỷ đồng), trong đó, thu nội địa bằng 110,4% so với dự toán năm (tăng gần 118.000 tỷ đồng); thu từ dầu thô bằng 197,4% (tăng 22.600 tỷ đồng); thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu bằng 122,1% (tăng 39.500 tỷ đồng). Lạm phát bình quân năm 2021 tăng 0,81% so với bình quân năm 2020. Chỉ số tiêu dùng (CPI) năm 2021 chỉ tăng 1,84% so với năm 2020 và là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016, góp phần không nhỏ vào ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho Chính phủ thực hiện nhiều chính sách tài khóa trong hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiềm chế, tỷ giá ít biến động đã giúp cho Việt Nam tiếp tục là điểm đến đầy hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đạt trên 31 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020.
Chính sách tài khóa của Việt Nam
Từ năm 2020 đến nay, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế - xã hội, tạo sức ép rất lớn đến cân đối ngân sách nhà nước. Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhiều hoạt động kinh tế bị ngưng trệ hoặc sụt giảm khiến nguồn thu ngân sách nhà nước bị ảnh hưởng tiêu cực. Trong khi đó, nhu cầu chi tiêu cho công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả do đại dịch COVID-19 mang lại tăng cao. Nguồn thu ngân sách nhà nước giảm do nền kinh tế gặp khó khăn và phải thực hiện các chính sách ưu đãi. Trong bối cảnh đó, các chính sách tài khóa đã được nới lỏng với mục tiêu tập trung nguồn lực cho phòng, chống đại dịch COVID-19 và hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn.
Về nguồn thu ngân sách nhà nước, Việt Nam thực hiện quản lý nguồn thu, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phấn đấu tăng mức thu ở những địa bàn, lĩnh vực có điều kiện, quyết liệt xử lý thu hồi nợ đọng thuế. Nhờ đà tăng trưởng của nền kinh tế từ những tháng cuối của năm 2021, một số ngành, lĩnh vực được hưởng lợi từ chính sách nới lỏng về tài khóa, tiền tệ như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản... tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước; tăng thu từ tăng giá dầu thô (khoảng 70 USD/thùng) và các hoạt động xuất, nhập khẩu.
Về chi ngân sách nhà nước, ưu tiên cân đối nguồn cung cho lĩnh vực phòng, chống đại dịch COVID-19 và hỗ trợ người dân phải chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19; thực hiện cắt giảm tối thiểu 50% kinh phí hội nghị, kinh phí công tác trong và ngoài nước, tiết kiệm thêm 10% kinh phí chi thường xuyên, tập trung kinh phí cho phòng, chống đại dịch COVID-19.
Trước tác động nghiêm trọng của đợt dịch COVID-19 lần thứ 4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua bốn giải pháp bổ sung về miễn, giảm thuế, gồm: 1- Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 đối với doanh nghiệp, tổ chức có doanh thu không quá 200 tỷ đồng; 2- Miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng và các loại thuế khác trong các quý III và IV của năm 2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tại các địa bàn chịu tác động của đại dịch COVID-19; 3- Giảm thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ trong nhiều ngành, nghề; 4- Miễn tiền chậm nộp phát sinh đối với các doanh nghiệp, tổ chức phát sinh thua lỗ năm 2020. Tổng số tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất mà Nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân trong năm 2021 là khoảng 138.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để kịp thời “tiếp sức” cho các đối tượng bị ảnh hưởng. Ngày 19-6-2020, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 116/2020/QH14, “Về việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp”; Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 9-4-2020, “Về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”; Nghị quyết số 154/NQ-CP, ngày 19-10-2020, là Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 42/NQ-CP của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19; Nghị quyết số 84/NQ-CP, ngày 29-5-2020, “Về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch COVID-19”. Tổng gói kích thích tài khóa bao gồm giảm thuế và tiền thuê đất trị giá 180.000 tỷ đồng tương đương 3% GDP; chiếm 11,7% thu ngân sách, 10,3% chi ngân sách và 88% mức thâm hụt ngân sách. Bên cạnh đó, khoản chi tiền mặt cho an sinh trị giá 62.000 tỷ đồng, giảm giá điện trị giá 11.000 tỷ đồng và hoãn đóng bảo hiểm xã hội trị giá 9.500 tỷ đồng. Như vậy, tính tổng thể quy mô gói kích thích tài khóa của Việt Nam tương đương 4,3% GDP.
Năm 2021, dịch bệnh COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, vì vậy, ngày 19-4-2021, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 52/2021/NĐ-CP, “Về gia hạn tiền thuế và tiền thuê đất trong năm 2021”; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021, “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”. Ngày 7-7-2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19; ngày 9-9-2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP, “Về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19”…
Có thể thấy, phản ứng trong chính sách tài khóa của Việt Nam là phản ứng nhanh, chủ động và linh hoạt. Từ khi cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 xảy ra trong năm 2020, Chính phủ đã đưa ra những chính sách linh hoạt công cụ tài khóa. Bước sang năm 2021, khủng hoảng y tế trở nên trầm trọng hơn nhiều so với năm 2020 dẫn đến cú sốc mạnh về kinh tế. Chính phủ gia tăng chi tiêu hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 thông qua các gói hỗ trợ. Nhờ đó giúp người dân, doanh nghiệp trụ vững trong đại dịch COVID-19. Ảnh hưởng của dịch bệnh khiến hàng hóa đầu vào, đầu ra đều bị ngưng trệ, nhiều dây chuyền sản xuất phải tạm dừng hoạt động, kéo theo hàng trăm lao động mất việc làm. Trong thời điểm khó khăn đó, các gói hỗ trợ tài chính đã góp phần giảm thiểu căng thẳng, cân đối luồng tiền, chi phí và áp lực tài chính ngắn hạn cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh.
Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-Ttg được ban hành kịp thời trong thời điểm đại dịch COVID-19 bùng phát mạnh đã giúp doanh nghiệp giữ nguồn lao động trong giai đoạn khó khăn do ứng phó dịch bệnh. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước để thực hiện theo Nghị quyết 63/NQ-CP, ngày 29-06-2021, của Chính phủ, “Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022” đã chỉ đạo 16 ngân hàng thương mại thông qua Hiệp hội Ngân hàng giảm lãi suất cho vay áp dụng từ ngày 15-7-2021 đến hết năm 2021 với tổng số tiền lãi giảm cho khách hàng khoảng 15.560 tỷ đồng, đạt 75,48% so với cam kết.
Năm 2020, tổng giá trị hỗ trợ về thuế đạt khoảng 129.000 tỷ đồng; trong đó, số tiền được gia hạn khoảng 97.500 tỷ đồng; số tiền được miễn, giảm khoảng 31.500 tỷ đồng. Năm 2021, tính chung các giải pháp hỗ trợ bổ sung được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thì tổng số tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất mà Nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân là khoảng 138.000 tỷ đồng.
Với các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp cùng với sự điều chỉnh chính sách phù hợp, kịp thời đúng đối tượng, các hoạt động sản xuất, kinh doanh được kỳ vọng sẽ có thêm lực đẩy để góp phần khôi phục nền kinh tế trong năm 2022.
Các giải pháp của chính sách tài khóa ở Việt Nam nhằm ứng phó với đại dịch COVID-19
Năm 2022, tình hình thế giới và trong nước tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức. Dịch bệnh COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp, tác động kéo dài, song trải qua các đợt dịch bùng phát, kinh nghiệm, năng lực và khả năng ứng phó của Việt Nam cũng được nâng lên đáng kể. Tỷ lệ tiêm vaccine phòng, chống COVID-19 tăng cao tạo điều kiện sớm mở cửa nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng trở lại. Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn, các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đều đang trên đà phục hồi nhanh chóng, thúc đẩy hợp tác giao thương mạnh mẽ hơn. Nhiệm vụ đặt ra cho năm 2022 là cần có các giải pháp nhanh chóng khôi phục lại các hoạt động của nền kinh tế, khắc phục sự đứt gãy của chuỗi cung ứng, phục hồi thị trường lao động, đặc biệt là ở các trung tâm công nghiệp, dịch vụ. Trong bối cảnh đó, chính sách tài khóa nới lỏng sẽ đóng vai trò quan trọng vừa tạo động lực hỗ trợ cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân, vừa bảo đảm an ninh an toàn tài chính quốc gia, ổn định vĩ mô. Dưới góc độ chính sách kinh tế vĩ mô, cần sử dụng công cụ chính là chính sách tài khóa còn chính sách tiền tệ sẽ đóng vai trò hỗ trợ. Các nhà phân tích chính sách ở hầu hết quốc gia đều thống nhất về sự cần thiết của việc sử dụng ngân sách để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế. Thông thường, chính sách tài khóa tập trung thực hiện 5 nhóm giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách về thu ngân sách nhà nước, phân bổ hợp lý nguồn lực phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, tỷ lệ thu thuế/GDP còn thấp. Một số ngành có thể tăng thu như thuế bất động sản, thuế thừa kế… Ngoài ra, để mở rộng nguồn vốn, Chính phủ có thể thông qua nguồn tài sản là doanh nghiệp nhà nước (với tổng tài sản gần 3 triệu tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 1,42 triệu tỷ đồng), giao quyền tự chủ cho người đại diện phần vốn tại doanh nghiệp để thực hiện đầu tư các dự án theo kế hoạch đầu tư trung hạn. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước được quyền đem vốn và tài sản thế chấp tại ngân hàng để đầu tư các dự án đó.
Thứ hai, vay nợ là một nguồn tiềm năng, có thể vay nợ nước ngoài từ các tổ chức tài chính quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh khả năng cho vay trên thị trường quốc tế đang gặp hạn chế thì việc phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư trong nước là một lựa chọn. Bên cạnh đó, để thu hút các nhà đầu tư trong nước mua trái phiếu, Chính phủ có thể xem xét phát hành trái phiếu có lãi suất điều chỉnh theo lạm phát, phát hành trái phiếu chính phủ cả nội tệ và ngoại tệ để có thu hút nguồn lực thực hiện hỗ trợ cho doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch COVID-19 và tái cơ cấu nền kinh tế. Trong thời gian tới, một trong những nhiệm vụ tiên quyết, hàng đầu mà Chính phủ xác định là thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế. Nguồn vốn cho vay để tái cơ cấu kinh tế sẽ lấy từ nguồn phát hành trái phiếu và dành cho những doanh nghiệp có tiềm năng tạo ra những đột phá về tái cơ cấu kinh tế, được lựa chọn theo mục tiêu của Chính phủ, như tạo việc làm, đầu tư bảo vệ môi trường…
Thứ ba, đẩy mạnh tái cấu trúc, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; bảo đảm dự toán nguồn thu ngân sách, hỗ trợ thâm hụt ngân sách thông qua chuyển nhượng các tài sản công. Chính phủ giao cho Ủy ban Quản lý vốn chịu trách nhiệm điều phối nguồn lực của các tập đoàn, tổng công ty mà Ủy ban đang chịu trách nhiệm quản lý để đầu tư vào những dự án trọng điểm mà Chính phủ dự kiến sẽ đầu tư trong giai đoạn 2021 - 2030.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước; tiết kiệm triệt để, chống lãng phí, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, bảo đảm tính bền vững, an ninh, an toàn tài chính quốc gia. Có thể tiếp tục cắt giảm chi thường xuyên tối thiểu 10%, nhất là các chi phí chưa thực sự cần thiết, như hội thảo, hội nghị, đi công tác trong và ngoài nước. Hiện nay, việc tái phân bổ chi tiêu tại Việt Nam đang được thúc đẩy bởi ở cả phía cung và cầu do doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, hoạt động xuất nhập khẩu. Chính phủ có thể tái phân bổ chi tiêu bằng cách cắt giảm các khoản chi thường xuyên và chuyển các khoản này cho an sinh xã hội.
Thứ năm, nhanh chóng triển khai chi ngân sách nhà nước cho đầu tư công. Tính đến hết tháng 10-2021, cả nước đã giải ngân 257.387 tỷ đồng vốn đầu tư công, chỉ đạt 55,8% kế hoạch đã đề ra. Trong đó, một số dự án trọng điểm có tỷ lệ giải ngân khá thấp, như dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành chỉ đạt 53%; dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông đạt 65,8% kế hoạch... Đồng thời, cần bố trí một khoản mục chi tái thiết kinh tế trong dự toán ngân sách giai đoạn 2021 - 2026.
Việc thực hiện chính sách tài khóa chủ động, linh hoạt và chặt chẽ trong đại dịch COVID -19 góp phần củng cố khả năng chống chịu của nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng. Các chính sách tài khóa và an sinh xã hội vừa qua của Chính phủ đã giúp ngăn chặn sự suy thoái sâu của nền kinh tế Việt Nam. Khác với các cuộc khủng hoảng đã từng xảy ra, đại dịch COVID-19 đặt ra yêu cầu Chính phủ cần có những chính sách nhằm đạt được mục tiêu phục hồi, giảm thiểu những tác động bất lợi đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta./.
Tác động của đại dịch COVID-19 đến nền kinh tế Việt Nam và một số giải pháp ứng phó  (27/05/2022)
Xác định đúng động lực cơ bản cho Quảng Ninh phát triển  (27/05/2022)
Phát triển kinh tế số: động lực cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19  (27/05/2022)
Những động lực chính để phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay  (27/05/2022)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay