Khai thác, phát huy nguồn lực di sản văn hóa trong phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh

TS VŨ THÚY HIỀN
Trưởng phòng Nghiên cứu văn hóa - xã hội, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội
13:25, ngày 09-12-2024

1. Đặt vấn đề

Nguồn lực di sản văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch vì nó không chỉ là yếu tố thu hút du khách, thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn góp phần nâng cao giá trị văn hóa, lịch sử và bảo tồn những đặc trưng riêng biệt của một địa phương hay quốc gia. Giá trị của những di sản văn hóa: di tích lịch sử, công trình kiến trúc, các hình thức nghệ thuật, tập quán, lễ hội, ngành nghề truyền thống,… cùng với các thành tựu kinh tế, chính trị, xã hội, cơ sở văn hóa nghệ thuật, bảo tàng,… là đối tượng cho du lịch khai thác và sử dụng. Những tài nguyên này không chỉ tạo ra môi trường và điều kiện cho du lịch phát sinh và phát triển, mà còn quyết định quy mô, thể loại, chất lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch.

Di sản văn hóa tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo và khác biệt mà không có nơi nào có được. Các di tích lịch sử, các lễ hội truyền thống, các kiến trúc văn hóa đặc sắc đều có thể trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Việc phát huy di sản văn hóa giúp tạo ra những tour du lịch đặc biệt, mang đậm tính bản địa và góp phần tạo dựng thương hiệu du lịch của quốc gia, địa phương. Bên cạnh đó, khi di sản văn hóa được phát huy đúng cách trong phát triển du lịch, chúng sẽ được bảo tồn, bảo vệ khỏi nguy cơ mai một. Du lịch giúp gia tăng sự quan tâm và ý thức cộng đồng trong việc gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống. Phát triển du lịch từ nguồn lực di sản văn hóa mang lại nguồn thu lớn cho địa phương và quốc gia thông qua các hoạt động như tham quan di tích, mua sắm đặc sản, tham gia các lễ hội truyền thống, và chi tiêu vào các dịch vụ du lịch khác. Điều này giúp tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, nhất là cho các cộng đồng dân cư tại các khu vực có di sản văn hóa. Mặt khác, việc phát triển du lịch di sản có thể giúp cung cấp nguồn tài chính cho công tác bảo tồn và duy tu các di tích lịch sử, văn hóa, tạo ra một nguồn lực bền vững cho việc duy trì các giá trị di sản văn hóa.

Di sản văn hóa là tài nguyên nhân văn quan trọng nhất để phát triển ngành công nghiệp văn hóa có ưu thế là du lịch văn hóa/du lịch di sản. Khai thác các giá trị di sản văn hóa là một trong những mục tiêu để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Điều này được nhấn mạnh trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đồng thời, phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu văn hóa, lối sống địa phương; phát triển du lịch làng nghề và du lịch cộng đồng cũng được xác định là 1 trong 4 sản phẩm du lịch chính của Việt Nam tại đề án “Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

Để khai thác lợi thế và tiềm năng to lớn của nguồn lực di sản văn hóa, trong giai đoạn vừa qua, nhiều địa phương đã có những bước chuyển đổi mạnh mẽ, định hướng phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản, biến di sản thành “tài sản”, phát huy “sức mạnh mềm” trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

2. Thực trạng phát huy nguồn lực di sản văn hóa trong phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh

Với sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và văn hóa, tỉnh Quảng Ninh sở hữu kho tàng di sản văn hóa vô cùng đặc sắc, phong phú với 637 di sản văn hóa vật thể (đình, chùa, đền, miếu, danh lam thắng cảnh…); 362 di sản văn hóa phi vật thể (lễ hội, phong tục, tập quán, trò chơi dân gian...), trong đó có 8 di tích quốc gia đặc biệt; 12 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; di sản thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (trong đó có then nghi lễ người Tày ở huyện Bình Liêu) được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây chính là nguồn tài nguyên trong việc tạo thế mạnh, thương hiệu và sự khác biệt cho sản phẩm du lịch của Quảng Ninh, là nguồn lực quý giá trong phát triển phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Ninh và cả nước.

Với nhiều lợi thế, Quảng Ninh xác định du lịch là một trong ba trụ cột tạo nên tăng trưởng kinh tế của địa phương. Nghị quyết số 20-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Ninh đã xác định du lịch phải trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đồng thời, Quảng Ninh nhấn mạnh sẽ tiếp tục phát huy mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người, đưa vào khai thác ngày càng nhiều hơn, hiệu quả hơn hệ thống di sản tại các địa phương, định hướng này được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 30/10/2023 về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững.

Theo Báo cáo đánh giá chỉ số cạnh tranh du lịch Việt Nam năm 2021 (VTCI 2021) đối với 15 tỉnh/thành phố theo các nhóm, trụ cột, Quảng Ninh có vị trí xếp hạng rất cao, xếp hạng chung đứng thứ 2/15 (sau Đà Nẵng); trong đó, trụ cột “tài nguyên văn hóa” đứng thứ 5/15 (sau Hà Nội, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, TP. Hồ Chí Minh), kết quả trên cho thấy tiềm năng du lịch văn hóa của Quảng Ninh so với các địa phương khác là rất lớn. Khai thác tốt lợi thế tài nguyên văn hóa, di sản văn hóa và phát huy sức mạnh tổng hợp cho phát triển du lịch sẽ góp phần khẳng định vị thế là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Hiện nay, du lịch văn hóa được xác định là một trong 4 dòng sản phẩm chủ đạo của du lịch Quảng Ninh (gồm du lịch biển đảo; du lịch văn hóa, tâm linh; du lịch sinh thái cộng đồng và du lịch biên giới). Trong những năm qua, ngành du lịch Quảng Ninh đã khai thác và phát huy hiệu quả giá trị của các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh để phát triển du lịch.

Ngoài sức hút từ các công trình văn hóa hiện đại như cụm Bảo tàng - Thư viện, Cung Quy hoạch, Hội chợ và Triển lãm tỉnh..., các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh trải dài khắp địa bàn tỉnh cùng hệ thống các lễ hội truyền thống, văn hóa ẩm thực độc đáo của các vùng, miền, các di sản văn hóa mang nét đặc trưng văn hóa đặc sắc của Quảng Ninh đã trở thành những tài nguyên du lịch hết sức giá trị.

Trong số hơn 600 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh của tỉnh, có rất nhiều di tích trở thành những điểm đến du lịch hấp dẫn thu hút đông đảo du khách mỗi năm. Khai thác lợi thế này, Quảng Ninh đã phát triển du lịch tâm linh với chuỗi các khu di tích, danh thắng tiêu biểu: Di tích lịch sử nhà Trần (Thành phố Đông Triều), quần thể di tích danh thắng Yên Tử, chùa Ba Vàng (Thành phố Uông Bí), chùa Lôi Âm và chùa Long Tiên (Thành phố Hạ Long), đền Cửa Ông (Thành phố Cẩm Phả), chùa Cái Bầu (huyện Vân Đồn)…

Theo báo cáo của Sở Du lịch, hiện khoảng 120 di tích, di sản đã nằm trong các điểm tour, tuyến du lịch cố định của Quảng Ninh, trong đó có những di tích được các đơn vị lữ hành lựa chọn để thiết kế nhiều sản phẩm riêng, trọn gói để đưa vào khai thác. Vào dịp Tết Nguyên đán mỗi năm (từ mồng 1 - 6/1 âm lịch), Quảng Ninh đón khoảng 70 - 100 vạn du khách, trong đó có tới 70% lượng du khách có mặt tại các di tích, di sản văn hóa trên địa bàn. Điều này cho thấy di tích, di sản văn hóa đã và đang là thành tố rất quan trọng của du lịch Quảng Ninh.

Những năm qua, Quảng Ninh đã huy động nhiều nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực xã hội hóa với trị giá hàng nghìn tỷ đồng trong việc đầu tư tu bổ, tôn tạo, để các di tích này trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút trung bình 6 triệu lượt khách du lịch hằng năm, tiêu biểu như Yên Tử, Cửa Ông, Cái Bầu, Ba Vàng... Các di sản lớn của tỉnh như Vịnh Hạ Long, Yên Tử, Bạch Đằng đều đã và đang được định hướng để trở thành những di sản thế giới liên vùng. Hiện nay, UNESCO đang đánh giá hồ sơ đề cử công nhận Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản thế giới, sẽ tiếp tục góp phần đưa Quảng Ninh trở thành địa danh nổi tiếng toàn cầu, mở ra cơ hội lớn trong giao lưu, hội nhập quốc tế, xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc.

Những năm trở lại đây, nhiều lễ hội truyền thống tại Quảng Ninh được phục dựng, cùng với mục đích bảo tồn văn hóa thì yếu tố kích cầu du lịch cũng là mục tiêu hàng đầu. Tiêu biểu như: Lễ hội truyền thống đền Đức ông Trần Quốc Nghiễn (Hạ Long); Ngày Kiêng gió, hội Soóng Cọ (Bình Liêu); Lễ hội đền Xã Tắc, lễ hội hoa sim biên giới năm 2022 (Móng Cái)... Đặc biệt, việc tổ chức thành công một số môn thi đấu SEA Games 31 tại các điểm đến văn hóa như Khu di tích - danh thắng Yên Tử, Cung Quy hoạch, Hội chợ và Triển lãm tỉnh năm 2022 đã góp phần quảng bá, giới thiệu, tạo ấn tượng mạnh mẽ, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến với Quảng Ninh.

Bên cạnh đó, Quảng Ninh còn chú trọng số hóa các di sản văn hóa giúp quảng bá hình ảnh, thúc đẩy du lịch. Cụ thể, thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu và công bố tác phẩm văn học - nghệ thuật Việt Nam trên nền tảng công nghệ của cuôc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cán bộ Quỹ Hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật Việt Nam đã thực hiện quay phim, chụp ảnh, số hóa 3D không gian văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, các di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng, các bảo vật quốc gia tại tỉnh Quảng Ninh. Trong đó, tập trung vào di tích và danh thắng Yên Tử. Việc số hóa 3D các không gian văn hóa, di tích và hiện vật ở Yên Tử là việc làm rất có ý nghĩa, giúp du khách trước khi đến với di tích Yên Tử có thể tìm hiểu các không gian văn hóa, các hiện vật trên môi trường ảo. Bên cạnh đó, vừa giúp quảng bá hình ảnh của di sản, thúc đẩy du lịch, mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Với chủ trương gắn việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di sản văn hóa phục vụ phát triển du lịch, tỉnh Quảng Ninh thực hiện phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương, từ công tác quản lý tới khâu đầu tư, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị di tích sau đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư cho di tích đã mở đường cho hàng loạt di tích “hồi sinh”, tiêu biểu như: công trình chùa Cái Bầu - Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm; Trung tâm văn hóa Trúc Lâm Yên Tử; khu di sản nhà Trần;….với hàng loạt các kiến trúc được phục hồi, tôn tạo cùng hệ thống dịch vụ đi kèm. Các đình, đền, chùa, miếu lớn, nhỏ cũng được đầu tư khang trang, bề thế, như chùa Ba Vàng (Uông Bí), chùa Đống Phúc (Quảng Yên), chùa Cảnh Huống (Đông Triều), đền Cửa Ông (Cẩm Phả) - đền Cặp Tiên (Vân Đồn)… Diện mạo các di tích thay đổi theo hướng khang trang, sạch đẹp, nhiều lễ hội gắn với các di tích được phục hồi, sức hút với du khách cũng tăng lên. Các điểm di tích nay đa phần đều trở thành các điểm du lịch địa phương, thu hút hàng triệu lượt khách hằng năm.

Bên cạnh đẩy mạnh sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh gắn với các di sản văn hóa, du lịch gắn với trải nghiệm văn hóa địa phương ở Quảng Ninh cũng có cơ hội rất lớn để phát triển. Các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh đã chú trọng khai thác các sản phẩm du lịch có hàm lượng văn hóa cao. Tiêu biểu như: sản phẩm “Một ngày làm ngư dân” phục vụ du khách trải nghiệm cuộc sống làm nghề của ngư dân các làng chài trên Vịnh Hạ Long; Mô hình du lịch làng quê Yên Đức (xã Yên Đức, Đông Triều) giới thiệu những nét văn hóa làng quê của vùng đồng bằng Bắc Bộ tới du khách trên hành trình từ Hà Nội về Hạ Long; mô hình du lịch trải nghiệm cuộc sống, văn hóa đặc trưng của người dân vùng đảo Quan Lạn (Vân Đồn); mô hình du lịch cộng đồng gắn với trải nghiệm những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số ở Bình Liêu…

Quảng Ninh cũng tích cực triển khai các dự án, đề án về nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh; xây dựng Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị một số làng dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch cộng đồng giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030,... đầu tư phục dựng các lễ hội truyền thống, lễ hội đồng bào các dân tộc, bảo tồn một số bộ môn nghệ thuật dân tộc để trở thành sản phẩm văn hóa, du lịch riêng có, độc đáo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Từ năm 2022 đến nay, Quảng Ninh đã chủ trì và được lựa chọn để tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch mang tầm cỡ khu vực và quốc tế với hàng nghìn người tham dự. Tiêu biểu, như: Lễ hội hoa Anh đào - Mai vàng Yên Tử, Lễ hội Carnaval Hạ Long, Hội thi giao lưu hát đối hữu nghị Việt - Trung trên sông biên giới, cuộc thi Tiếng hát hữu nghị Việt - Trung, Liên hoan Xiếc quốc tế - Hạ Long 2019, Festival âm nhạc quốc tế - Hạ Long 2020; Đại hội đồng Diễn đàn Du lịch Liên khu vực Đông Á (EATOF) lần thứ 17 năm 2022 gắn với Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập EATOF; SEA Games 31; Cuộc thi “Tiếng hát hữu nghị Việt - Trung” năm 2022; Lễ hội Hokkaido tại Hạ Long (Hokkaido Festival in Ha Long) năm 2023…

Nhờ lợi thế về di sản văn hóa đa dạng và độc đáo cùng với chiến lược quảng bá, phát triển các sản phẩm du lịch đa dạng và hấp dẫn, thời gian qua, Quảng Ninh đã ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ về lượng khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế. Trong năm 2019, Quảng Ninh đã thu hút được tổng cộng 14,0 triệu lượt du khách, tăng trưởng trong giai đoạn 2015 - 2019 đạt 16%/năm. Trong đó có khoảng 8,3 triệu lượt du khách nội địa, chiếm 59%, và khoảng 5,7 triệu lượt du khách quốc tế, chiếm 41%(1).

Hình 1: Tổng lượng khách du lịch đến Quảng Ninh (2010 - 2019)

Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050

Du lịch di sản cũng đóng góp một phần lớn vào kinh tế của tỉnh, tạo công ăn việc làm, tạo doanh thu cho người dân, đóng góp tăng trưởng GRDP của tỉnh Quảng Ninh, cụ thể: Giai đoạn 2011 - 2019, lao động ngành du lịch Quảng Ninh tăng trưởng cao. Tính từ thời điển năm 2011 ngành du lịch Quảng Ninh có 62.500 lao động, trong đó, có 25.000 lao động trực tiếp. Đến năm 2019, ngành du lịch Quảng Ninh đã có 150.000 lao động, trong đó có 60.000 lao động trực tiếp, tốc độ tăng trưởng bình quân về lao động du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2011 - 2020 đạt 11,6%; số ngày khách lưu trú từ hơn 1 ngày năm 2011 đến gần 3 ngày trong năm 2021; chi tiêu bình quân của khách năm 2011 từ 1,897 triệu đồng/khách quốc tế đến năm 2020 đã tăng lên là 2,874triệu đồng/khách; giai đoạn 2011 - 2019, tăng trưởng GRDP du lịch của Quảng Ninh ở mức cao. Năm 2011, GRDP du lịch ước đạt chỉ khoảng 5.725 tỷ đồng, đến năm 2019 đạt khoảng 20.642 tỷ đồng, gấp 3,6 lần, so với năm 2011.

Hình 2: Tác động tổng hợp của du lịch đến tỉnh Quảng Ninh năm 2022

Đơn vị: Phần trăm

Nguồn: Báo cáo số 629/BC-CTK ngày 26/12/2022 về kết quả điểu tra khách du lịch tại Quảng Ninh năm 2022

Năm 2022, tổng thu từ khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 22599,2 tỷ đồng. Giá trị tăng thêm từ thu từ khách du lịch đã tác động đến VA toàn tỉnh là 14318,7 tỷ đồng. Tổng đóng góp của du lịch (bao gồm cả thuế) vào GRDP là 16192,7 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ngành du lịch Quảng Ninh còn tạo 44.832 việc làm năm 2022(2). Năm 2023, Quảng Ninh đã thu hút khách du lịch ước đạt 15,5 triệu lượt, trong đó có 2 triệu lượt du khách quốc tế, tăng 33,6% so với cùng kỳ, doanh thu du lịch ước đạt 33.480 tỉ đồng, tăng 48% so với cùng kỳ. Năm 2024, tổng khách du lịch đến tỉnh Quảng Ninh ước đạt 19 triệu lượt, tăng 20% so cùng kỳ năm 2023, tổng thu du lịch ước đạt 46.460 tỷ đồng(3).

Có thể thấy, những giá trị đạt được trong khai thác di sản văn hóa vào phát triển du lịch đã góp phần quảng bá hình ảnh du lịch Quảng Ninh sâu rộng tới du khách trong nước và quốc tế, đồng thời thể hiện những nỗ lực của tỉnh trong triển khai công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hướng tới du lịch xanh và bền vững. Các di tích, danh thắng, di sản văn hóa đã trở thành nguồn lực quan trọng để du lịch Quảng Ninh phát triển. Bên cạnh đó, du lịch phát triển đã tạo nguồn lực để Quảng Ninh đầu tư trở lại cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị của di sản cũng như mang đến lợi ích kinh tế - xã hội cho cộng đồng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát huy nguồn lực di sản văn hóa trong phát triển du lịch Quảng Ninh hiện nay còn một số tồn tại, hạn chế như:

Một là, tình trạng khai thác chưa bền vững. Quảng Ninh có nhiều di sản văn hóa, như các di tích lịch sử, làng nghề truyền thống, và các lễ hội dân gian. Tuy nhiên, một số di sản này chưa được bảo tồn và phát huy hiệu quả, có nguy cơ bị mai một do việc khai thác du lịch quá mức mà không chú trọng đến bảo vệ giá trị văn hóa. Mặc dù Vịnh Hạ Long là một kỳ quan thiên nhiên được UNESCO công nhận, nhưng việc phát triển du lịch ở khu vực này đôi khi dẫn đến tình trạng quá tải, ảnh hưởng đến cảnh quan và môi trường.

Hai là, chưa chú trọng đến chất lượng sản phẩm du lịch văn hóa. Mặc dù có tiềm năng lớn về di sản văn hóa, nhưng các sản phẩm du lịch văn hóa ở Quảng Ninh vẫn chưa phát triển đầy đủ và có sự kết nối chặt chẽ với các sản phẩm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Các tour du lịch thường tập trung vào các điểm đến nổi bật mà chưa phát huy hết sự đa dạng và phong phú của các di sản văn hóa địa phương. Các chương trình du lịch văn hóa cũng chưa được thiết kế phù hợp để giữ chân du khách lâu dài, đặc biệt là du khách quốc tế.

Ba là, việc phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo còn hạn chế. Các lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống và các giá trị văn hóa đặc sắc của Quảng Ninh chưa được khai thác triệt để. Các hoạt động du lịch thường thiên về các trải nghiệm đơn giản và chưa có sự sáng tạo trong việc kết hợp với các yếu tố văn hóa đặc trưng của địa phương.

Bốn là, nguồn nhân lực và công tác quản lý còn hạn chế. Quảng Ninh thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao trong việc hướng dẫn và giới thiệu các giá trị di sản văn hóa. Nhân lực làm việc trong ngành du lịch chủ yếu là lao động phổ thông, thiếu các chuyên gia về di sản văn hóa. Quản lý và bảo vệ di sản văn hóa cũng gặp phải những khó khăn, vì sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng còn thiếu đồng bộ. Việc kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên du lịch chưa đủ chặt chẽ, dẫn đến tình trạng xâm phạm di tích, làm giảm giá trị của di sản.

Năm là, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo tồn di sản văn hóa chưa được chú trọng đầy đủ. Cộng đồng địa phương và du khách cần hiểu rõ về giá trị của các di sản để có hành vi ứng xử đúng đắn khi tham gia vào các hoạt động du lịch.

4. Một số đề xuất, kiến nghị

Để phát huy nguồn lực di sản văn hóa trong phát triển du lịch, góp phần thúc đẩy kinh tế di sản tại tỉnh Quảng Ninh, có thể tập trung một số nội dung sau:

Thứ nhất, chú trọng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Cần nâng cao công tác bảo tồn. Quản lý tốt các di tích, bảo tồn các giá trị lịch sử và văn hóa của các di sản, bao gồm việc phục hồi các công trình di tích, bảo vệ các làng nghề truyền thống, và gìn giữ các phong tục tập quán của các cộng đồng dân tộc. Quảng Ninh có nhiều di sản văn hóa phong phú như di tích Yên Tử, Vịnh Hạ Long và các lễ hội truyền thống của các dân tộc, việc bảo tồn và duy trì các di tích, lễ hội, phong tục tập quán của các cộng đồng dân tộc thiểu số là rất quan trọng để duy trì giá trị văn hóa lâu dài.

Chú trọng xây dựng các chính sách và quy định bảo vệ nghiêm ngặt các khu di tích, đồng thời tăng cường công tác giám sát và kiểm tra để bảo đảm sự phát triển bền vững.

Phục dựng các nghề thủ công truyền thống: Các nghề như mây tre đan, chế tác đá quý, và dệt thổ cẩm của người dân tộc có thể được phát triển thành sản phẩm du lịch đặc trưng.

Thứ hai, tăng cường khai thác, phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo.

Quảng Ninh có thể phát triển các sản phẩm du lịch kết hợp giữa văn hóa truyền thống và du lịch sinh thái, ví dụ như du lịch làng nghề, du lịch lễ hội, du lịch khám phá các di tích lịch sử…

Tạo các tour du lịch theo chủ đề: Phát triển các tour du lịch văn hóa đặc thù, gắn kết các điểm di tích lịch sử, làng nghề truyền thống, lễ hội văn hóa với các điểm đến nổi tiếng như Vịnh Hạ Long, Chùa Ba Vàng, Đảo Cô Tô, để thu hút du khách tìm hiểu văn hóa địa phương.

Tổ chức lễ hội văn hóa đặc sắc: Quảng Ninh có nhiều lễ hội dân gian phong phú (như Lễ hội Chùa Ba Vàng, Lễ hội Yên Tử). Việc tổ chức và quảng bá các lễ hội này không chỉ giúp bảo tồn di sản văn hóa mà còn tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo thu hút khách du lịch.

Thứ ba, đào tạo nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp.

Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành du lịch, đặc biệt là trong lĩnh vực hướng dẫn viên du lịch và quản lý di sản văn hóa.

Đào tạo kỹ năng cho người dân địa phương: Cung cấp các khóa đào tạo về quản lý di sản, hướng dẫn viên du lịch, phục vụ du lịch, giúp người dân hiểu rõ hơn về các giá trị di sản và cách thức khai thác, phát huy chúng trong hoạt động du lịch.

Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng: Tạo cơ hội cho cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động du lịch, từ đó không chỉ bảo tồn mà còn tạo ra sinh kế bền vững cho họ.

Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ trong phát triển du lịch.

Sử dụng công nghệ số trong giới thiệu di sản: Phát triển ứng dụng di động, website, và các nền tảng số để cung cấp thông tin về di sản văn hóa, lịch sử, các điểm du lịch hấp dẫn tại Quảng Ninh. Công nghệ AR/VR có thể giúp du khách trải nghiệm di sản một cách sống động, đặc biệt trong việc khám phá các khu di tích cổ hay các hoạt động văn hóa dân gian.

Phát triển du lịch thông minh: Xây dựng các hệ thống thông tin du lịch thông minh tại các điểm đến để du khách dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu về các giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc của Quảng Ninh.

Thứ năm, chú trọng xây dựng thương hiệu du lịch văn hóa Quảng Ninh.

Quảng bá về di sản văn hóa: Tăng cường các hoạt động xúc tiến du lịch, quảng bá hình ảnh của Quảng Ninh như là một điểm đến du lịch văn hóa hấp dẫn thông qua các kênh truyền thông, hội chợ du lịch quốc tế và sự kiện quảng bá văn hóa. Tổ chức các sự kiện văn hóa, lễ hội quy mô lớn như các lễ hội truyền thống như lễ hội Yên Tử, lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc thu hút sự tham gia của các du khách trong và ngoài nước. Các sự kiện này không chỉ giúp bảo tồn văn hóa mà còn tạo cơ hội phát triển kinh tế cho cộng đồng. Quảng bá du lịch văn hóa qua các nền tảng truyền thông, sử dụng các kênh truyền thông số, mạng xã hội, các chiến dịch quảng cáo quốc gia và quốc tế để giới thiệu các giá trị di sản văn hóa của Quảng Ninh tới du khách.

Xây dựng sản phẩm du lịch gắn với di sản: Tạo ra các sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc văn hóa Quảng Ninh, như du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm văn hóa, tham gia các hoạt động nghề truyền thống (làm gốm, thêu, dệt, chế biến món ăn đặc sản) để khách du lịch không chỉ tham quan mà còn trải nghiệm và hiểu sâu về văn hóa địa phương.

Thứ sáu, tăng cường liên kết giữa di sản văn hóa và du lịch sinh thái.

Phát triển du lịch kết hợp với bảo vệ môi trường: Gắn kết các hoạt động du lịch văn hóa với các chương trình bảo vệ môi trường tự nhiên, như bảo tồn rừng, biển, các hệ sinh thái biển đảo, qua đó phát huy cả giá trị di sản thiên nhiên và văn hóa. Ví dụ, việc kết hợp du lịch vịnh Hạ Long với các hoạt động tìm hiểu về lịch sử văn hóa của các khu vực xung quanh sẽ mang lại trải nghiệm đa chiều cho du khách.

Du lịch nông thôn và làng nghề: Quảng Ninh có nhiều làng nghề truyền thống, có thể phát triển du lịch nông thôn gắn với các sản phẩm đặc sản, nghề thủ công truyền thống của địa phương như mây tre đan, sản phẩm gốm sứ, làm bánh truyền thống, giúp khách du lịch hiểu hơn về văn hóa lao động và sinh hoạt của cộng đồng.

Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác công - tư và hợp tác quốc tế trong bảo tồn và phát triển du lịch di sản.

Tăng cường sự hợp tác giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức văn hóa, và các doanh nghiệp du lịch để phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa chất lượng và bảo vệ tốt các di sản. Công ty lữ hành và ban quản lý di sản cần hợp tác chặt chẽ để nâng cao tính độc đáo, đặc sắc, hấp dẫn, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc về sản phẩm và dịch vụ du lịch để thu hút du khách trong nước và quốc tế. Cần thiết có sự hợp tác giữa các nhà đầu tư, nhà khoa học, công ty dịch vụ du lịch và cộng đồng dân cư địa phương để có chiến lược bảo tồn và phát huy di sản, tạo ra các sản phẩm du lịch đặc thù và chất lượng. Kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia quy hoạch điểm đến di sản.

Kết nối với các tổ chức bảo tồn di sản quốc tế: Quảng Ninh có thể hợp tác với các tổ chức quốc tế trong công tác bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. Việc tham gia các mạng lưới di sản thế giới sẽ giúp Quảng Ninh nâng cao giá trị và quảng bá di sản ra thế giới.

Liên kết với các tỉnh, thành phố khác: Tạo ra các sản phẩm du lịch kết nối các tỉnh, thành phố trong khu vực, ví dụ như các tour liên vùng giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, Hà Nội, nhằm thu hút thêm khách du lịch.

5. Kết luận

Mỗi tỉnh, thành phố đều có những đặc trưng riêng, đối với Quảng Ninh, di sản văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng thương hiệu du lịch độc đáo. Việc gắn kết di sản văn hóa với các hoạt động du lịch sẽ giúp Quảng Ninh khẳng định được bản sắc và thương hiệu du lịch đặc biệt, không chỉ nổi bật về thiên nhiên mà còn về giá trị văn hóa.

Việc phát huy nguồn lực di sản văn hóa trong phát triển du lịch Quảng Ninh đòi hỏi một chiến lược tổng thể, kết hợp giữa bảo tồn và khai thác hợp lý, đồng thời tạo ra các sản phẩm du lịch đặc trưng, sáng tạo, hấp dẫn. Đồng thời, cần có chiến lược phát triển bền vững, bảo đảm rằng du lịch không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo của địa phương. Để thực hiện được điều này, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền, các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng để cùng nhau phát triển du lịch theo hướng bảo tồn và phát huy tối đa giá trị di sản văn hóa./.

 ------------------

(1). UBND tỉnh Quảng Ninh (2023), Báo cáo tổng hợp quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

(2). Cục thống kê tỉnh Quảng Ninh (2023), Báo cáo số 629/BC-CTK ngày 26/12/2022 về kết quả điểu tra khách du lịch tại Quảng Ninh năm 2022

(3). Số liệu được nêu tại Tại hội nghị đánh giá tình hình, kết quả công tác năm 2024; phương hướng, nhiệm vụ năm 2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh (theo https://baoquangninh.vn/ ngày 16/11/2024)

Tài liệu tham khảo:

1. Đặng Văn Bài (2022), “Bàn về chính sách đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản” trong Kỷ yếu Hội thảo văn hóa 2022: Thể chế, chính sách và nguồn lực cho phát triển văn hóa, Bắc Ninh

2. Cục thống kê tỉnh Quảng Ninh (2022), Báo cáo số 55/BC-CTK ngày 15/01/2022 về kết quả điểu tra khách du lịch tại Quảng Ninh năm 2021

3. Cục thống kê tỉnh Quảng Ninh (2023), Báo cáo số 629/BC-CTK ngày 26/12/2022 về kết quả điểu tra khách du lịch tại Quảng Ninh năm 2022

4. Nguyễn Dung, Đào Linh (2022), Phát huy các giá trị văn hóa để phát triển du lịch, https://baoquangninh.vn, ngày 04/7/2022

5. Hải Sơn (2024), Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa tỉnh Quảng Ninh trong phát triển kinh tế - xã hội, https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 20/8/2024

6. UBND tỉnh Quảng Ninh (2023), Báo cáo chuyên đề phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050

7. UBND tỉnh Quảng Ninh (2023), Báo cáo tổng hợp quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050