TCCSĐT - Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Việc vận dụng tư tưởng của Người vào công tác xây dựng Đảng hiện nay sẽ góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.

Xây dựng Đảng chính là yêu cầu để Đảng tồn tại và phát triển

Trong Bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương (ngày 11-5-1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng “vì điều kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: không nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hóa khá nặng, v.v… (1). Từ đó có thể thấy, xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng, ngày một tiến bộ hơn, trở thành người cách mạng chân chính.

Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (2). Câu nói đó, Bác đã đưa ra yêu cầu cơ bản về đạo đức của cán bộ, đảng viên và yêu cầu xuất phát từ bản chất cách mạng của Đảng ta, từ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Đất nước đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn, đồng thời đang phải đối mặt với không ít khó khăn, nguy cơ, thách thức. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng, bộ máy Nhà nước vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Đây là một vấn đề gây nhức nhối trong xã hội, là một trong những nguy cơ tiềm ẩm đe doạ thắng lợi của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã đề ra nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách hiện nay về xây dựng Đảng”. Nghị quyết chỉ rõ: “Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng đảng còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ” (3). Cùng với đó là lời khẳng định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, tham nhũng lãng phí, tùy tiện vô nguyên tắc” (4).

Những nội dung trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam mà Người đề ra, nếu được toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là những người cán bộ, đảng viên nghiên cứu và học tập chắc chắn sẽ góp phần quan trọng trong việc làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư tưởng, làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt Nam tiến về phía trước, vượt qua được những khó khăn thử thách đó.

Một là, Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động

Mở đầu tác phẩm Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn luận điểm nổi tiếng của V. Lê-nin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” (5). Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Người viết: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công tác thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” (6). Như vậy, bên cạnh việc khẳng định Cách mạng Việt Nam “trước hết phải có Đảng cách mệnh” (7), Người còn muốn nhắc đến một điều đặc biệt quan trọng: dẫn đường cho mọi hoạt động của cách mạng đều cần thiết phải có một học thuyết, một chủ nghĩa cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát hiện được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình” (8).

Trong các bài giảng huấn luyện cho cán bộ cách mạng từ năm 1925 đến năm 1927 (sau được in thành tác phẩm Đường cách mệnh) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” (9). Nhưng, Người cũng phát hiện ra rằng “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin” (10).

Có chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, soi đường, dẫn lối, Đảng đã đạt được những mục tiêu nhất định, đã lãnh đạo được giai cấp công nhân thực hiện được xứ mệnh lịch sử của mình, đưa dân tộc ta vượt qua những khúc quanh của lịch sử, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong bài Chủ nghĩa Lê-nin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức (tháng 4-1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lê-nin đã để lại cho chúng tôi một kho tàng quý báu vô ngần: học thuyết của Người về cơ sở tư tưởng, về những nguyên tắc tổ chức, về lý luận và sách lược của đảng cách mạng. Chủ nghĩa Lê-nin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi” (11).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng phải gắn lý luận với hành động thực tiễn. Phải có phương pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc phải bệnh giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, “lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế” (12). Người luôn phê phán kiểu học thuộc lòng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và yêu cầu “Đảng kết hợp lý luận với kinh nghiệm và thực hành của cách mạng Việt Nam. Đảng áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lê-nin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam… không phải chỉ học thuộc lòng vài bộ sách của Mác - Lê-nin mà làm được như vậy. Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ lịch sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào lực lượng và sáng kiến của quần chúng, phải gom góp tư tưởng, kinh nghiệm, sáng kiến và ý chí của quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào trong quần chúng” (13). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên “học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng” (14).

Hai là, thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng

Nguyên tắc tập trung, dân chủ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Trong Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp dưới, đảng viên cũ hoặc đảng viên mới, đều nhất định phải giữ kỷ luật của giai cấp vô sản” (15). Đây là nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất để xây dựng Đảng chặt chẽ, vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp.

Theo Người, “dân chủ”“tập trung” luôn luôn đi đôi với nhau. Giữa “dân chủ”“tập trung” có mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là hai vế của một nguyên tắc. Trong Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học nhân dân Việt Nam, ngày 21-7-1956, Bác viết về mối quan hệ đó như sau: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Ðối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Ðó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý” (16). Thực hiện nguyên tắc này, nghĩa là phòng và chống các biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, thói hách dịch, chụp mũ, trù dập. Đồng thời cũng cần đề phòng và chống những biểu hiện của dân chủ “quá trớn”.

Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Người cho rằng, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm” (17).

Người viết về cá nhân phụ trách: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong” (18).

Thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng phải chú ý khắc phục những biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, đồng thời phải chống lại tình trạng dựa dẫm tập thể, khống dám quyết đoán và chịu trách nhiệm.

Nguyên tắc tự phê bình và phê bình: Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là quy luật phát triển của Đảng, là vũ khí để rèn luyện Đảng viên nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn, và tăng cường đoàn kết trong nội bộ. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị loại bỏ, vươn tới một sự hoàn thiện.

Người nói về nguyên tắc tự phê bình và phê bình: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (19). Chức càng cao, quyền càng lớn, khi mắc phải sai lầm hậu quả sẽ rất lớn, do đó, tự phê bình và phê bình sẽ khiến cho mỗi người cán bộ, Đảng viên luôn nhận thức đúng về những hành động của mình và tiến bộ hơn, sẽ tránh được những sai lầm đáng tiếc.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hằng ngày; phải thẳng thắn, trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”, không che giấu,. Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết, “ráo riết”. Người cũng yêu cầu: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” (20).

Kỷ luật nghiêm minh, tự giác: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu không có kỷ luật, “Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ” (21). Có kỷ luật nghiêm minh, tự giác, Đảng ta sẽ có một sức mạnh vô cùng to lớn: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên” (22). Theo Người, bên cạnh việc chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, cần biến kỷ luật thành ý thức và hành động tự giác trong mỗi người cán bộ, đảng viên.

Đoàn kết, thống nhất trong Đảng: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Người khẳng định: “Với sự đoàn kết nhất trí và lòng cương quyết quật cường của Đảng, của Chính phủ và của toàn dân, chúng ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn để đi đến hoàn toàn thắng lợi” (23).

Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” (24). Theo Người, muốn đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức cách mạng, “quét sạch chủ nghĩa cá nhân” và các biểu hiện tiêu cực khác, phải yêu thương lẫn nhau, “sống có tình, có nghĩa”.

Ba là, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân

Trong một bài viết trên báo Sự thật số 120, ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (25).

Như vậy, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Dựa vào dân, gắn bó mật thiết với nhân dân là điều kiện tồn tại và phát triển của Đảng. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính là đem lại những lợi ích thiết thực cho nhân dân. Muốn vậy, Đảng phải trở thành “người đầy tớ” của nhân dân. Để tăng cường sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên đi sâu vào đời sống quần chúng nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng tuyệt đối không được theo đuổi quần chúng.

Bốn là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” (26).

Do đó, theo Người, Đảng ta cần quan tâm tới việc xây dựng, phát hiện và sử dụng cán bộ: “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta” (27). Tuy nhiên, Người cũng yêu cầu, “Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với công việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô bô la la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại” (28).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ đó phải vừa có đức, vừa có tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (29).

Năm là, thường xuyên chỉnh đốn và đổi mới Đảng

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bởi lẽ, bên cạnh số đông đảng viên ưu tú, thì vẫn còn không ít đảng viên chưa thật sự trong sạch, vững mạnh. Chỉnh đốn để gột rửa tất cả những lỗi lầm, sai trái. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” (30). Người cũng từng nhấn mạnh: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (31).

Người chỉ rõ: “Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp uỷ đảng phải tăng cường công tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố đảng về tư tưởng, về tổ chức” (32).

Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, bên cạnh những thời cơ mới, vận hội mới, dân tộc ta cũng đứng trước không ít những khó khăn, thách thức. Vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải được khẳng định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần được nâng cao hơn bao giờ hết để xứng tầm với các yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch sử dân tộc giao phó. Đảng cần xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ góp phần làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử./.

----------------------------------------------

Chú thích:

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t. 6, tr. 479;

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 510;

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2012, tr. 21;

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2012, tr. 22;

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 02, tr. 259;

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 233 - 234;

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 02, tr. 267;

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 08, tr. 231;

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 02, tr. 268;

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 02, tr. 268;

(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 07, tr. 517;

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 08, tr. 496;

(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 07, tr. 231;

(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 08, tr. 498;

(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 07, tr. 229;

(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 08, tr.216;

(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr.504;

(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 505;

(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 261;

(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 497 - 498;

(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 258;

(22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 311;

(23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 06, tr. 175;

(24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 510;

(25) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 698;

(26) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 269;

(27) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 273;

(28) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 274;

(29) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 252 - 253;

(30) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 503;

(31) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 557 - 558;

(32) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 300.