Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh

ThS. Nguyễn Thị Loan Anh, Đại học Văn hóa Hà Nội
18:23, ngày 13-07-2013
TCCSĐT - Trong quá trình tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa theo tư tưởng của Người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới

Một là, xác định vị trí và vai trò của văn hóa

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “dốt” cũng là một loại giặc không kém gì “giặc đói” và “giặc ngoại xâm”; từ đó Người cho rằng, “chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ đưa loài người tới hạnh phúc vô tận”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh coi giáo dục, khoa học và văn hóa nói chung có tầm quan trọng như các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Vì văn hóa có thể thấm vào các lĩnh vực đó, không chỉ ở phương diện nhận thức tư tưởng, mà trước tiên và cơ bản ở phương diện tâm lý, luân lý; tức là ở phương diện gốc của tình cảm, đạo lý là người, làm người, và là gốc của đời sống xã hội nói chung.

Khi miền Bắc bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “... để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”(2). Người chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế, kinh tế phải đi trước... Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(3).

Người xác định ba tính chất cơ bản nhất của văn hóa dân tộc là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Quan niệm này được thể hiện rõ trong Đề cương văn hóa năm 1943 và trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (năm 1951).

Một khi văn hóa ở trong kinh tế và chính trị thì phát triển kinh tế và lãnh đạo chính trị phải có tính văn hóa; và phát triển văn hóa phải trên cơ sở kinh tế và chính trị. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, phát triển kinh tế - xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước theo hướng nhân văn vì sự phát triển toàn diện của con người đang được coi là xu hướng tất yếu vì sự phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, quan niệm về văn hóa lối sống và đạo đức làm người

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lề lối, tác phong, tư cách, đạo đức của con người, hay nói chung là văn hóa lối sống của con người. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 03-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách mà chính quyền cách mạng non trẻ phải giải quyết; trong đó có nhiệm vụ xây dựng đời sống mới. Người chủ trương: “Phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.

Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”(4).

Đến năm 1947, mặc dù cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt nhưng với bút danh Tân Sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Đời sống mới với nội dung cơ bản là: “... thanh toán nạn mù chữ”, “...phải học đạo đức công dân, phổ thông chính trị”, “... để trả lời cho thế giới biết nước ta là nước văn minh...”(5). Và Người rất coi trọng tư cách, đạo đức của con người. Người cho rằng, cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đời sống mới, sửa đổi lối làm việc, phù hợp với từng đối tượng: nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, trí thức, bộ đội, công an, nhất là cán bộ, đảng viên. Chẳng hạn Người đề xuất “Tư cách người cách mạng”, “Năm điều Bác Hồ dạy thiếu nhi”, “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”, “Sáu yêu cầu về người làm tướng”, và bốn nhiệm vụ của Quân đội. Những yêu cầu của Người không phải là những huấn lệnh tư tưởng, mà đã trở thành chuẩn mực văn hóa. Người quan tâm triển khai phong trào thi đua nhằm xây dựng những tấm gương “người tốt, việc tốt”.

Ba là, quan niệm về “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc”

“Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc”, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là:

“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.

2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.

3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.

4. Xây dựng chính trị: dân quyền.

5. Xây dựng kinh tế”(6).

Giáo dục, khoa học và văn hóa nói chung, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể trở thành nhân tố động lực thông qua các phương diện sau:

- Trước tiên phải phát động phong trào “diệt giặc dốt”; tức là thực hiện mọi người đều đi học - học trong nhà trường, trong sản xuất, trong cuộc sống để tiến lên làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại.

- Xây dựng tâm lý, luân lý như xây dựng phúc lợi cho nhân dân, xây dựng dân quyền (xây dựng chính trị) và xây dựng kinh tế(7). Người nói rõ rằng, xây dựng tâm lý là xây dựng tinh thần độc lập tự cường; xây dựng luân lý là xây dựng năng lực biết hy sinh, làm lợi cho quần chúng.

- Tâm lý, luân lý nói riêng, văn hóa nói chung thể hiện sâu sắc và tập trung truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc.

- Do văn hóa tác động vào “mọi phương thức sinh hoạt” nên cần phải kết hợp khoa học với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; phải thực hiện lồng ghép giá trị văn hóa vào các hoạt động chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và sinh hoạt của mỗi người.

Bốn là, quan niệm về thực hành và tấm gương “người tốt, việc tốt” nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hành là nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Việc coi sinh hoạt thường nhật là một nội dung hoạt động thực hành - hoạt động vật chất có chủ đích, chứng tỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần, vận dụng sáng tạo và phát triển quan niệm của C. Mác (1818 - 1883) về tính hiện thực trong bản chất tổng hòa các quan hệ xã hội của chủ thể hoạt động thực hành. Quan niệm “chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta” là nhằm xây dựng ý thức tự giác của các chủ thể hoạt động thực hành, đặc biệt ở con người xã hội chủ nghĩa.

Hoạt động thực hành, theo Người, diễn ra trong mối quan hệ biện chứng giữa “diện” và “điểm”, cụ thể là giữa việc thực hiện các “công việc hàng ngày” với phong trào thi đua, giữa tấm gương “người tốt, việc tốt” với người người thi đua, ngành ngành thi đua, giữa giải phóng và phát triển, nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Thông qua đó, mới thực hiện được mối quan hệ biện chứng giữa thực hành và hiểu biết theo vòng xoáy ốc đi lên, không thể đảo ngược, với trình độ ngày càng cao.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc xây dựng tấm gương thực hành và đoàn kết để thực hành “có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Tấm gương thực hành được biểu hiện ở những “người tốt, việc tốt” là sự thể hiện sống động cho sự thống nhất giữa thực tiễn với lý luận. Bởi lẽ, thông qua những tấm gương người tốt, việc tốt và phong trào thi đua có thể tổng kết thực tiễn; mà tổng kết thực tiễn chính là vòng khâu trực tiếp để nâng lên thành lý luận.

Tấm gương thực hành còn là biểu hiện thống nhất giữa “biết với làm”, giữa “lời nói đi đôi với hành động” hay giữa cách nghĩ với cách làm của những chủ thể hoạt động thực hành. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ thực sự là tấm gương thực hành, khi vận động, tổ chức, lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động thực hành trong sự nghiệp cách mạng. Vì thế, tấm gương không tách rời đoàn kết, và đoàn kết là để thực hành. Các tấm gương và đoàn kết thực hành là động lực thúc đẩy các hoạt động thực hành nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Quan điểm của Đảng đối với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đánh dấu một bước phát triển trong tư duy của Đảng ta về văn hóa và nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Để thúc đẩy sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng, và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, Đảng ta đã xây dựng phương châm, giải pháp nghiên cứu, học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.

Ngay từ Đại hội lần thứ II (năm 1951), Đảng ta đã khẳng định: “... Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh, và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn". Thực hiện Nghị quyết Đại hội, toàn Đảng ra sức học tập tư tưởng, đạo đức của Người, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi. Đến năm 1970, theo Nghị quyết 195-NQ/TW của Bộ Chính trị Khóa III (ngày 6-3-1970), Đảng ta mở Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Nghị quyết yêu cầu: “Tất cả các đảng viên phải tham gia lớp nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chủ tịch…". Đây là lần đầu tiên trong Nghị quyết của mình, Đảng ta yêu cầu mọi đảng viên phải nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh, coi đây là biện pháp có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao năng lực nhận thức, tư duy và phẩm chất đạo đức của người đảng viên.

Đến Đại hội VII (năm 1991), trong Cương lĩnh và Báo cáo chính trị được thông qua tại Đại hội khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Với tinh thần và ý nghĩa đó, ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW “về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới” và nhân dịp kỷ niệm 113 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã phát động tổ chức đợt tuyên truyền, giáo dục sâu rộng tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngày 03-2-2007, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tiếp đó là Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân. Các chỉ thị ra đời nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI của Đảng. Đây là chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng.

Giải pháp đẩy mạnh xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh

Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa

Trong bối cảnh hiện nay cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ xã hội về tầm quan trọng của văn hóa, cả về lĩnh vực lý luận và hoạt động thực tiễn, nhất là việc thực hành các giá trị văn hóa trong nhân dân, trước tiên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó:

- Cùng với việc tiếp tục nghiên cứu lý luận theo hướng tăng cường gắn với thực tiễn, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục các giá trị văn hóa, mà cụ thể là các chuẩn mực văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong toàn xã hội, trước tiên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là các cấp lãnh đạo, quản lý.

- Cần đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ, bởi, thanh niên, còn là những nhân cách đang định hình. Và cũng cần phải đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ lao động khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, vùng sâu, vùng xa. Vì ở những khu vực này trình độ học vấn, trong đó có nhận thức về tư tưởng, chính trị, còn hạn chế.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của của các đoàn thể nhân dân, đồng thời, đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Tập trung xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó hình thành, phát triển “văn hóa Đảng” và mỗi cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”. Đồng thời, đưa văn hóa vào quá trình xây dựng, triển khai tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm sao để mỗi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, từ khâu xây dựng đến khâu triển khai tổ chức, thực hiện đều được thẩm thấu và thấm sâu các giá trị văn hóa, có sức lay động lòng người.

Xây dựng, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, đưa văn hóa vào quá trình xây dựng, triển khai tổ chức, thực hiện pháp luật của Nhà nước để pháp luật thực sự nghiêm minh và công minh theo nguyên tắc “không trừ một ai” (Hồ Chí Minh); trên cơ sở đó, lối sống của nhân dân tuân theo “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Hồ Chí Minh).

Phát huy vai trò của của các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, là “cải cách hành chính” đối với các đoàn thể nhân dân, trước tiên là các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, để các tổ chức này thực sự là tổ chức nhân dân hay tổ chức có tính tự quản. Nhờ đó, chúng thực hiện vai trò là tiếng nói về tư tưởng, tình cảm của nhân dân thuộc các thành phần kinh tế, các giai tầng xã hội khác nhau; đồng thời, đóng vai trò phản biện trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật có tính xây dựng đối với các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện một đảng cầm quyền ở nước ta.

Đẩy mạnh công tác xã hội hóa để văn hóa thực sự phát triển ngày càng rộng, càng sâu do nó là kết quả của “ý Đảng lòng dân”, chứ không phải là sản phẩm của “kế hoạch hóa”. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa không chỉ đóng khung ở việc góp tiền, mà được phát triển trên cơ sở “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng làm”, từ khâu quy hoạch đến khâu triển khai tổ chức, thực hiện các công trình văn hóa và các phong trào văn hóa, trước hết từ cơ sở. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa theo phương châm Hồ Chí Minh là: thực hành dân chủ, quản lý dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân; trong công tác không gò ép, mệnh lệnh, quan liêu; quét sạch nạn quan liêu, tham ô, hối lộ; đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, gắn liền với thực hành tiết kiệm (chứ không nên tổ chức lễ hội tràn lan như hiện nay).

Ba là, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Với tư cách là chủ thể của hoạt động thực hành, con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có nhân cách với những “tính cách riêng”, “sở trường riêng”, quyền lợi riêng, đời sống riêng. Người cho rằng, người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thiện và ác không phải tự nhiên có, mà “phần lớn do giáo dục mà ra”. Vì vậy, phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Thông qua đó, đào tạo, giác ngộ con người có phẩm chất cao đẹp, có trình độ phát triển toàn diện, để trở thành những con người xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “... chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”(8). Nhưng để có “con người xã hội chủ nghĩa” trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải “trồng người” và phải biết phát huy nhân tố con người./.

----------------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn phóng viên Mỹ, báo Nhân dân, ngày 18-5-1965.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 2000, T. 10, tr. 60.

(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, T. 10, tr. 59.

(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, T. 4, tr. 8-9.

(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, T. 4, tr. 8-9.

(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, T. 3, tr. 431.

(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, T. 3, tr. 431.

(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, T. 8, tr. 494-495.