Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc trọng dụng nhân tài trong xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc
Quan điểm trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời với nhiệm vụ cấp bách là xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng mà trọng tâm là đập tan bộ máy chính quyền cũ và thiết lập bộ máy chính quyền cách mạng, chính quyền của nhân dân với đội ngũ cán bộ, công chức mới. Muốn xây dựng và kiến thiết thành công Nhà nước dân chủ nhân dân còn non trẻ cần phải có nhân tài. Nhận thức rõ vị trí, vai trò của nhân tài đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc, ngày 4-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Thiếu óc tổ chức, một khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân dân”, với bút danh Chiến Thắng (đăng trên Báo Cứu quốc số 58). Trong bài viết này, song song với việc phê bình nghiêm khắc các khuyết điểm lớn của Ủy ban nhân dân các cấp đó là “bệnh lộn xộn, thiếu tổ chức, làm việc không có nguyên tắc, nền nếp, phân công trách nhiệm không rõ ràng, bố trí cán bộ sai, cán bộ năng lực yếu”, Người đã chỉ ra biện pháp khắc phục là cần phải “có óc tổ chức”, phải trọng dụng nhân tài. Người nhấn mạnh: “Việc dụng nhân tài, ta không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe, miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì ta đặt ngay vào việc ấy”(1). Đây chính là quan điểm trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 14-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Nhân tài và kiến quốc” đăng trên Báo Cứu quốc. Người chỉ rõ: “Nay muốn giữ vững nền độc lập chúng ta phải đem hết lòng hăng hái vào kiến quốc. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển, càng thêm nhiều”(2). Người kêu gọi: “Chúng tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài năng và sáng kiến,…lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng có thể thực hành được thì thực hành ngay”(3). Tư tưởng trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa được nhấn mạnh trong bài viết “Tìm người tài đức” đăng trên Báo Cứu quốc số 411 ra ngày 20-11-1946. Trong bài viết Người khẳng định: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”. Bài viết đã khẳng định quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò to lớn của nhân tài và tầm quan trọng của việc trọng dụng những người có tài, có đức trong sự nghiệp kiến thiết đất nước. Người quan niệm nước nhà không thiếu người có tài đức, Chính phủ không thấy được là có lỗi. Ở cương vị là Chủ tịch, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn nhận khuyết điểm đó và đề nghị các địa phương tìm người có tài đức có thể làm được những việc ích nước lợi nhà thì báo cho Chính phủ biết để sử dụng. Những bài báo “Nhân tài và kiến quốc” và “Tìm người tài đức” của Chủ tịch Hồ Chí Minh giống như các “chiếu cầu hiền” của các bậc minh quân ở triều đại phong kiến tiến bộ nước ta trong lịch sử. Nhờ có quan điểm đúng đắn về trọng dụng nhân tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã thu hút được rất nhiều người có tài, đức vào sự nghiệp kiến quốc và bảo vệ đất nước ngay từ những ngày đầu vô cùng khó khăn của chính quyền cách mạng.
Tháng 10-1947 khi Chiến dịch Thu Đông đang diễn ra ác liệt, khi mà bộ máy chính quyền cách mạng, ủy ban kháng chiến hành chính các cấp có nhiều cán bộ mắc khuyết điểm trầm trọng về lề lối làm việc, thiếu trách nhiệm với dân, vi phạm những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” với bút danh XYZ. Trong cuốn sách này, Người phê bình nghiêm khắc các khuyết điểm của cán bộ chính quyền các cấp, chỉ ra các nguyên tắc và biện pháp khắc phục. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ vai trò to lớn của cán bộ, của việc tuyển chọn, đánh giá và trọng dụng nhân tài. Là lãnh tụ cách mạng, là người khai sinh ra chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thấm nhuần tư tưởng trọng dụng nhân tài. Một khi đã có đường lối cách mạng đúng đắn thì cán bộ là khâu quyết định. Người viết: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Đây chính là quan điểm về con người với tính chất vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, động lực của cách mạng. Đó là biểu hiện cụ thể của tư tưởng “lấy dân làm gốc” để giành độc lập, tự do cho dân tộc. Từ nhận thức sâu sắc ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng Đảng cần phải đào tạo bồi dưỡng cán bộ, phải biết đánh giá, lựa chọn và trọng dụng đúng cán bộ, “phải trọng nhân tài, phải trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”. Trọng dụng và sử dụng đúng nhân tài là vấn đề cực kỳ quan trọng trong phương sách dùng người. Ở tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc”, “nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người chỉ nói mà không làm vào địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại”. Người phê phán: “Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người”, “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người đều lúng túng”. Người chỉ ra tác dụng to lớn của việc bố trí, sử dụng, trọng dụng đúng nhân tài, “phải biết dụng nhân như dụng mộc”, “phải biết tùy tài mà dùng người sẽ thành công”, “lãnh đạo khéo thì tài nhỏ có thể hóa thành tài to. Lãnh đạo không khéo thì tài to cũng hóa ra tài nhỏ”. Đó chính là nghệ thuật sử dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ ngày đầu xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến cứu quốc. “Nghệ thuật dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ “khéo dùng cán bộ”, “khéo dùng lãnh đạo” để “tài nhỏ hóa ra tài to”. “Khéo” ở đây không có nghĩa là “vỗ về nuông chiều cán bộ”, ưa dùng những người nhát gan dễ bảo “đập đi, hò đứng”, những bà con, anh em, bạn bè quen biết, những người tính tình hợp với mình, những kẻ “khéo nịnh hót mình”, mà là nghệ thuật sử dụng “đúng người đúng việc”, dùng người “đúng việc đúng chỗ”, “biết tùy tài mà dùng người”. “Khéo” ở đây còn thể hiện ở chỗ khiến cho cán bộ “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, có gan phụ trách, có gan làm việc”, và còn được thể hiện ở tinh thần “độ lượng vĩ đại”, chí công vô tư khi đánh giá, sử dụng cán bộ và đặc biệt ở tài năng thuyết phục, cảm hóa, những người lầm lỗi, khuyết điểm về với chính quyền cách mạng để giúp họ tiến bộ, biết sử dụng những người trái chính kiến với mình để “thêm bạn, bớt thù” sẽ có lợi cho dân, cho nước.
Nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực tiễn xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc
Nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh được minh chứng bằng những việc làm cụ thể trong thực tiễn. Sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã trân trọng mời những trí thức, nhân sĩ nổi tiếng, những người có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ năng lực, có kỹ năng trong quản lý điều hành bộ máy công quyền tham gia vào các cơ quan của Chính phủ, của các bộ, ngành, của ủy ban hành chính kháng chiến các cấp, động viên họ mang hết tài năng, tâm huyết và kinh nghiệm cống hiến cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc. Trong số đó có nhiều vị là đại quan của Nam Triều như Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Vi Văn Định, Phạm Khắc Hòe; có người là nhân sĩ nổi tiếng, những bậc đại khoa như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố; có nhiều người trí thức Tây học nổi tiếng như Phan Anh, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Hà; những tư sản dân tộc yêu nước như Ngô Tử Hạ, Trịnh Văn Bính,... Vì đại nghĩa dân tộc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân tin tưởng trọng dụng, họ đã vượt qua những mặc cảm phức tạp của quá khứ để nhiệt tình cống hiến cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Việc lựa chọn bố trí sử dụng nhân sự chủ chốt của Bộ Nội vụ, một trong các bộ quan trọng của Chính phủ lâm thời, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến là ví dụ cụ thể về quan điểm, tài năng, nghệ thuật sử dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên là đồng chí Võ Nguyên Giáp, giáo sư sử học, người học trò xuất sắc tin cậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người duy nhất trong Chính phủ lâm thời được Người ủy quyền ký một loạt sắc lệnh quan trọng như Sắc lệnh số 3 tuyên bố lệnh thiết quân luật tại Hà Nội; Sắc lệnh số 5 về việc ấn định Quốc kỳ Việt Nam; Sắc lệnh số 11 bỏ thuế thân và định việc thay đổi chế độ thuế khóa hiện hành; Sắc lệnh số 14 về việc tổ chức cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc dân Đại hội (Quốc hội). Khi Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập và ra mắt Quốc hội ngày 2-3-1946, cụ Huỳnh Thúc Kháng, “một người đạo đức và danh vọng mà toàn thể quốc dân ai cũng biết”, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận nhiệm vụ khác. Sau khi Cụ Huỳnh Thúc Kháng từ trần, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 30-4-1947 theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội đồng Chính phủ đã nhất trí cử ông Tôn Đức Thắng giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và đến ngày 9-11-1947 ông Phan Kế Toại được giữ chức quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Đây là một trong các bộ quan trọng của Chính phủ lâm thời và Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã thực hiện chức năng tổ chức xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự trị an, vừa đảm nhiệm một phần chức năng của Chủ tịch phủ, theo dõi và điều hành công tác nội trị, pháp chế, hành chính công. Bộ Nội vụ với cơ cấu nhân sự lãnh đạo gồm những người có tài, đức đã tham mưu cho Chính phủ ban hành các sắc lệnh quan trọng về tổng tuyển cử, về xây dựng bộ máy chính quyền cách mạng, xây dựng nền hành chính, chế độ công vụ và đội ngũ công chức của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ Nội vụ cũng đã tham mưu đề xuất nhân sự và trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34 ngày 20-9-1945 về việc lập ra Ủy ban soạn thảo và đệ trình Quốc hội một bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm 7 người: Hồ Chí Minh, Nguyễn Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng và Đặng Xuân Khu. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban soạn thảo Hiến pháp gồm những con người tài ba nói trên đã dự thảo và trình Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946 - đạo luật cơ bản đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn giữ nguyên giá trị khoa học và thực tiễn đến ngày nay.
Sau Cách mạng Tháng Tám, vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra cho Chính phủ là phải khẩn trương ban hành văn bản về tổ chức bộ máy của chính quyền nhân dân, cần phải có một ban nghiên cứu về tổ chức chính quyền địa phương. Theo đề xuất của Bộ Nội vụ và được sự đồng ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối tháng 10-1945, Ban Nghiên cứu tổ chức chính quyền địa phương đã được thành lập gồm đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm Trưởng ban. Ủy viên gồm các ông: Cù Huy Cận (Bộ trưởng Bộ Canh Nông); Lê Văn Hiến (Bộ trưởng Bộ Lao động); Vũ Đình Hòe (Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục); Vũ Trọng Khánh (Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Hoàng Minh Giám (Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ); Hoàng Hữu Nam (Chánh Văn phòng Bộ Nội vụ); Chu Quang Côn (chuyên viên Bộ Nội vụ); Lê Hữu Tám (chuyên viên Bộ Nội vụ), Nguyễn Xiển (Chủ tịch UBND Bắc Bộ); Nguyễn Văn Trân (Phó Chủ tịch UBND Bắc Bộ); Nguyễn Duy Thân (Ủy viên chính trị UBND Bắc Bộ); Nguyễn Văn Huyên (Giám đốc Nha đại học Bộ Quốc gia Giáo dục); Phạm Khắc Hòe (nguyên Đổng lý Văn phòng cựu Hoàng đế Bảo Đại). Sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương nhờ có tài năng và kinh nghiệm của các ủy viên, Ủy Ban Nghiên cứu tổ chức chính quyền địa phương đã giúp Bộ Nội vụ đệ trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 63 về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp (xã, huyện, tỉnh, kỳ). Đây là văn bản pháp lý đầu tiên về tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta. Nhiều quy định của sắc lệnh này còn có giá trị đến ngày nay.
Có thể nói, nhờ biết phát hiện, trọng dụng những người có tài năng, đức độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, trong một thời gian ngắn phải đối phó với vô vàn khó khăn về văn hóa - xã hội và nạn thù trong, giặc ngoài, đã xây dựng và ban hành được hệ thống thể chế, kiến tạo được bộ máy, quy tụ và tập hợp được đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc. Đó là kết quả cụ thể minh chứng cho tài năng và nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực tiễn xây dựng chính quyền cách mạng, kháng chiến kiến quốc mà đến nay chúng ta vẫn và sẽ phải tiếp tục học tập, noi theo.
Trong lịch sử Chính phủ, lịch sử nền công vụ nước nhà, sự kiện nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời giữ chức Bộ truởng Bộ Nội vụ từ tháng 3-1946 là điển hình nhất về quan điểm, tài năng, nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo thỏa thuận ngày 23-12-1945 giữa Việt Minh và các đảng đối lập cùng tham gia xây dựng Chính phủ kháng chiến thì người đứng đầu 2 bộ quan trọng là Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng phải là nhân sĩ trung lập. Với nhãn quan chính trị vô cùng sắc bén, khôn khéo và nhạy cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định mời cụ Huỳnh Thúc Kháng từ Trung Bộ ra Hà Nội nhận chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một chí sĩ yêu nước thuộc hàng tiền bối, là bậc đại khoa có danh vọng và uy tín lớn lao. “Việc cụ Huỳnh Thúc Kháng tham gia Chính phủ và giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ vừa giúp cho Chính phủ có thêm một nhân sĩ tài năng, đức độ, do đó củng cố thêm sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, và uy tín của Chính phủ được tăng thêm”(4).
Trên cương vị Bộ truởng Bộ Nội vụ, Cụ Huỳnh đã không quản tuổi cao, cống hiến hết sức mình cho dân, cho nước, tích cực tham gia vào các hoạt động quan trọng của Chính phủ. Cụ cũng đã chỉ đạo đổi mới tổ chức và phương thức làm việc của Bộ Nội vụ, ban hành nhiều nghị định, thông tư, hướng dẫn để hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính quyền cách mạng. Từ 31-5-1946 đến 21-10-1946, Cụ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao trọng trách ký các công văn thường ngày và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Với lập trường kiên định, thái độ kiên quyết trong việc đấu tranh với âm mưu chống phá sự nghiệp kiến quốc của các đảng phái phản động, Cụ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự trông đợi của nhân dân.
Việc đưa ông Phạm Khắc Hòe vào cơ cấu cán bộ chủ chốt của Bộ Nội vụ - một công chức có trình độ năng lực của chính quyền cũ cũng là một ví dụ minh chứng cho tài năng thu phục lòng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Phạm Khắc Hòe là một nhân sĩ tiến bộ, từng giữ chức Đổng lý văn phòng của Vua Bảo Đại. Sau khi được mời làm việc với các chiến sĩ cách mạng tại cơ quan Bộ Nội vụ, ông đã kiên định, tận tâm, tận lực công tác, hoàn thành nhiệm vụ Chính phủ và Bộ Nội vụ giao phó. Chính nhân sĩ tiến bộ Phạm Khắc Hòe sau này, trong hồi ký của mình, đã viết: “Sau 20 năm chìm đắm trong vũng bùn hôi tanh của chính quyền thực dân phong kiến, tôi vô cùng phấn khởi được góp phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng cơ cấu chính quyền ruột thịt của nhân dân và phân biệt được sự khác nhau giữa nền dân chủ tư sản mà tôi hằng “mơ ước” với nền dân chủ nhân dân, con đẻ của Cách mạng Tháng Tám”.
Có thể khẳng định quan điểm trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh những giá trị truyền thống của cha ông ta trong lịch sử, là đỉnh cao của “nghệ thuật” hay “phương sách” dùng người, là yếu tố góp phần làm nên những thành công trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Đặc biệt ngày nay, khi đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, thì vấn đề bồi dưỡng, phát triển nhân tài càng trở thành khâu quan trọng. Và, những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài chính là “chiếc chìa khóa vàng”, là một trong những định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”./.
--------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2002, tr 38-39
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tr 99
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tr 99
(4) Lịch sử Bộ Nội vụ, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2005, tr 35
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp Chủ tịch Liên minh Nghị sỹ hữu nghị Nhật - Việt  (27/04/2013)
Điện mừng Quốc khánh Cộng hòa Nam Phi  (27/04/2013)
Hội thảo quốc tế “Chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - khía cạnh lịch sử và pháp lý”  (27/04/2013)
- Độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế qua 40 năm đổi mới: Giải pháp thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII
- Độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế qua 40 năm đổi mới: Giải pháp thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII
- Nỗ lực thi công hoàn thành mục tiêu thông tuyến cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh đúng tiến độ
- Nỗ lực thi công hoàn thành mục tiêu thông tuyến cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh đúng tiến độ
- Lễ trao Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại lần thứ XI
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm