Xin-ga-po và nền công vụ của thế kỷ XXI

Khiếu Linh
16:41, ngày 01-08-2008

Xin-ga-po là một quốc đảo không lớn nhưng đang trở thành một động lực phát triển của châu Á - Thái Bình Dương. Quốc gia này không chỉ sở hữu kết cấu hạ tầng hoàn hảo, nhiều ngành công nghiệp mới đứng hàng đầu khu vực và thế giới, là trung tâm du lịch và mua sắm cạnh tranh nổi tiếng..., mà còn là một quốc gia đang thực hiện cuộc cải cách toàn diện nền công vụ với nhiều sáng kiến đặc sắc và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng quan tâm.

Là một quốc đảo nhỏ, Xin-ga-po không có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản để phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Các nguyên liệu và lương thực, thực phẩm, kể cả nước ngọt sinh hoạt của quốc gia này chủ yếu được nhập khẩu. Tuy nhiên, do có chiến lược phát triển phù hợp nên hiện nay Xin-ga-po là một nước phát triển cao với hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, nhiều ngành công nghiệp đứng đầu châu Á và thế giới như cảng biển, công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp đặt máy móc tinh vi, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, hàng không... Xin-ga-po là nước đứng đầu về sản xuất đĩa máy tính điện tử và bán dẫn, là trung tâm lọc dầu và vận chuyển dầu của châu Á. Đặc biệt, hiện nay, Xin-ga-po được xem là quốc gia đi tiên phong trong việc chuyển đổi sang kinh tế tri thức và đang nổi lên là một trung tâm du lịch và mua sắm cạnh tranh nhất ở châu Á - Thái Bình Dương (buôn bán, dịch vụ hiện chiếm 40% thuc nhập quốc dân).

Nền công vụ thế kỷ XXI - đạo đức và phúc lợi công chức

Xin-ga-po là quốc gia theo chế độ cộng hòa. Nền công vụ của quốc gia này là nền công vụ 1 cấp vừa là thành phố vừa là quốc gia. Chính phủ có 15 bộ và 9 cơ quan ngang bộ với khoảng 60 ngàn công chức. Về cơ bản, các công chức đều có trình độ cao. Xin-ga-po xây dựng nên công vụ thế kỷ XXI với triết lý đạo đức và phúc lợi công chức; trong đó, xoay quanh 3 vấn đề lớn là: Con người, Hệ thống và Khách hàng với tham vọng: khai thác tối đa tiềm năng của công chức, kiến lập hệ thống công vụ hoàn hảo và coi khách hàng (công dân) là trung tâm của nền công vụ.

Trước hết, con người - chủ thể của nền công vụ không chỉ được tuyển chọn theo những tiêu chuẩn tối ưu nhất mà cơ bản hơn là phải tạo ra môi trường, điều kiện để công chức phát huy hết tiềm năng của mình. Biện pháp được ưu tiên là đào tạo. Mỗi công chức sau khi được tuyển chọn đáp ứng yêu cầu về bằng cấp, sức khỏe, phẩm chất đạo đức, một điều kiện bắt buộc là cùng với quá trình thực thi công vụ, mỗi năm 1 công chức phải được đào tạo thêm 100 giờ theo chương trình quy hoạch của tổ chức. Trước đây, quan niệm chỉ có cấp cao mới được xem là lãnh đạo, nhưng từ năm 1995, quan niệm này đã thay đổi: cấp nào cũng có lãnh đạo và từ đó, đã xây dựng chương trình khung để đào tạo “nghiệp vụ” lãnh đạo ở tất cả các cấp.

Trên cơ sở đào tạo mới và đưa công chức tham gia vào mọi hoạt động của tổ chức đã khai thác và phát huy được tính chủ động tích cực và mọi tiềm năng sáng tạo của công chức. Bên cạnh đó, để cổ vũ và tạo điều kiện phát huy sáng kiến của công chức, tổ chức khuyến khích việc hình thành các nhóm hoạt động và luôn sẵn sàng tài trợ tài chính với mức cao đối với các hoạt động sáng tạo. Cùng với việc tạo mọi điều kiện để phát huy các khả năng sáng tạo của công chức vấn đề phúc lợi của công chức được đặc biệt quan tâm. Đó thực chất là tạo lập sự cân bằng giữa công vụ và đời sống của công chức.

Thứ hai, mặc dù hệ thống công vụ từ Chính phủ xuống các cấp của Xin-ga-po được xem là khá hoàn hảo nhưng Chính phủ đã đưa ra những sáng kiến về quy chế hoạt động “thông minh”. Nghĩa là, sự vận hành của hệ thống công vụ luôn luôn được xem xét và các khâu, đoạn, các quy trình được điều chỉnh thích ứng và phù hợp với hoàn cảnh mới. Để thực hiện chủ trương này, Chính phủ thường xuyên thành lập các ban, các nhóm công tác, các tổ chức nhằm thiết lập, điều hành, kiểm soát và điều chỉnh kịp thời các mối quan hệ giữa công vụ và công vụ, giữa công vụ và doanh nghiệp, giữa công vụ và tư nhân... Đồng thời, có cơ chế khung thường xuyên kiểm tra chất lượng các tổ chức của cả hệ thống công vụ.

Thứ ba, khách hàng là trung tâm của nền công vụ Xin-ga-po. Công dân là khách hàng của nền công vụ là một sáng kiến đặc sắc của quốc đảo này ở những năm đầu thế kỷ XXI. Từ khi sáng kiến được triển khai, hoạt động của nền công vụ đã thay đổi: Mọi công chức phải quan tâm, thường xuyên tham khảo ý kiến của công dân; Nền công vụ không bó hẹp trong hoạt động của công chức mà tạo lập những đối tác mới thông qua hệ thống dịch vụ có sự tham gia tích cực của các tổ chức tư nhân và công dân; Tìm kiếm và thiết lập các kênh thông tin, giao tiếp mới trực tuyến giữa công vụ và công dân như mạng điện tử, tin nhắn, điện thoại... Tiêu chuẩn công vụ được xem là tiêu chuẩn của các dịch vụ cung cấp, thỏa mãn yêu cầu của khách hàng (công dân). Trên cơ sở đó, nền công vụ đã thực hiện cơ chế mới: mọi công dân có quyền đến bất cứ cơ quan công quyền nào đề xuất nguyện vọng, và cơ quan đó phải có trách nhiệm chuyển vấn đề công dân yêu cầu đến cơ quan có chức năng giải quyết yêu cầu đó chứ công dân không phải tự tìm đến đúng địa chỉ có chức năng giải quyết vấn đề mà công dân yêu cầu. Chính vì vậy, ở Xin-ga-po không có chuyện công dân gõ nhầm cửa các cơ quan công quyền khi yêu cầu giải quyết những vấn đề của mình liên quan tới Chính phủ. Đây là một sáng kiến mang tính đột phá của nền công vụ coi công dân là khách hàng và coi khách hàng là trung tâm của nền công vụ.

Những khó khăn phải vượt qua

Quá trình cải cách nền công vụ Xin-ga-po những năm đầu thế kỷ XXI đã tạo được thành tựu bước đầu rất đáng khích lệ. Tinh thần cải cách đã thấm nhuần tới mọi cơ quan tổ chức và mọi công chức. Nền công vụ đang được xem như một khuôn mẫu trong các hoạt động xã hội ở quốc đảo này. Tuy nhiên, để đạt tới những kết quả như mong đợi trong cải cách nền công vụ, quốc gia này cần phải vượt qua một số trở ngại:

- Đội ngũ công chức ở Xin-ga-po là đội ngũ công chức trẻ (45 tuổi đã nghỉ hưu), nét ưu điểm của đội ngũ này là được tuyển chọn kỹ, đào tạo cơ bản, có trình độ cao, năng động, nhiều sáng kiến, nhưng lại thiếu kinh nghiệm và khả năng không đều. Vì vậy, thích ứng nhanh với cải cách nhưng sẽ gặp khó khăn khi thực hiện những chiến lược dài hơi, xây dựng các tổ chức công quyền hoạt động theo quy trình ổn định, bền vững.

- Tạo lập được sự giao tiếp thực sự “hiểu biết lẫn nhau” giữa công chức và công dân ở mọi lĩnh vực hoạt động của nền công vụ trong một quốc gia đa sắc tộc; sự chia sẻ trách nhiệm giữa các công chức có nguồn gốc xuất thân, truyền thống văn hóa, sự giáo dục và đào tạo khác nhau của đội ngũ công chức để tạo lập sự hoàn hảo trong giao tiếp và truyền đạt thông tin trong nền công vụ.

- Đánh giá sự thành công và tiến bộ của nền công vụ. Hiện nay, những người chủ trương cải cách chưa đưa ra được thước đo thuyết phục để cân đong đo đếm sự tiến bộ của nền công vụ. Mặc dù, họ đã đề xuất sáng kiến là cố gắng lượng hóa sự tiến bộ bằng cách tính đếm các sáng kiến của cá nhân, các tổ chức trong từng năm và xem việc thực hiện các sáng kiến đó chính là sự tiến bộ. Tuy nhiên, điều này mới chỉ dừng lại ở mức độ số lượng chứ chưa lượng hóa được sự tiến bộ về mặt chất lượng.

- Các biện pháp để khuyến khích, phát hiện, khai thác và tận dụng sáng kiến của mọi công chức trong hệ thông công quyền; nhất là đội ngũ công chức ở cấp cơ sở, cấp thấp.

- Duy trì động lực của cuộc cải cách toàn diện nền công vụ. Những động lực ấy phải được phát huy liên tục và luôn làm mới quá trình cải cách. Theo những người chủ trương cải cách, mấu chốt của vấn đề nằm trong triết lý: đạo đức và phúc lợi công chức. Thực hiện tốt mối quan hệ cân bằng giữa công vụ và đời sống công chức sẽ tạo ra động lực mới cho cuộc cải cách nền công vụ thế kỷ XXI ở Xin-ga-po./.