Tình hình kinh tế - xã hội 7 tháng đầu năm 2008
*Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp tháng 7 chủ yếu tập trung vào gieo cấy lúa mùa và thu hoạch lúa hè thu. Trong tháng 7, thời tiết tại các địa phương phía Bắc mưa nhiều và đều trên diện rộng, thuận lợi cho việc gieo cấy nhưng nắng nóng tại các tỉnh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã ảnh hưởng đến nguồn nước tưới trên một số diện tích lúa đã gieo cấy. Tính đến trung tuần tháng 7, cả nước đã gieo cấy được 988,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 85,9% cùng kỳ năm trước; trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 836,2 nghìn ha, bằng 82,7%; các địa phương phía Nam gieo cấy 152,2 nghìn ha, bằng 108,9%.
Cùng với việc gieo cấy lúa mùa, các địa phương phía Nam đã gieo cấy được 1932,5 nghìn ha lúa hè thu, bằng 105,5% cùng kỳ năm trước; trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long xuống giống 1690,5 nghìn ha, bằng 109,2%. Theo đánh giá ban đầu, lúa hè thu năm nay phát triển tốt nhưng dịch bệnh rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá đã xuất hiện trên diện tích lúa gieo cấy, do đó cần tăng cường công tác phòng trừ dịch bệnh để hạn chế thiệt hại. Tính đến 15-7-2008, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 481,6 nghìn ha lúa hè thu sớm, bằng 388,4% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 451,8 nghìn ha, bằng 464,3%.
Cũng tính đến trung tuần tháng 7, cả nước đã gieo trồng được 849,3 nghìn ha ngô, bằng 102,9% cùng kỳ năm trước; 122,7 nghìn ha khoai lang, bằng 93,2%; 398,2 nghìn ha sắn, bằng 109,2%; 140,5 nghìn ha đậu tương, bằng 99,9%; 218,7 nghìn ha lạc, bằng 103,1%; trồng mới 67,8 nghìn ha mía, bằng 89,8%; 536,7 nghìn ha rau đậu các loại, bằng 98,3%.
Chăn nuôi đang gặp khó khăn do giá thức ăn tăng cao và dịch bệnh vẫn tiếp tục xảy ra tại một số địa phương. Tính đến ngày 22-7-2008, dịch tai xanh trên lợn đã xuất hiện tại 13 tỉnh gồm: Sóc Trăng, Quảng Ninh, Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam, Hải Dương, Vĩnh Long, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Bạc Liêu, Lào Cai và Gia Lai; dịch cúm gia cầm xuất hiện tại 3 tỉnh:Trà Vinh, Đồng Tháp và Nghệ An; dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày ở 2 tỉnh Quảng Ninh và Cao Bằng. Công tác phòng chống dịch đang được các địa phương quan tâm và chỉ đạo tích cực để từng bước khống chế, không để dịch bệnh lây lan trên diện rộng.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung tháng 7-2008 ước tính đạt 19,5 nghìn ha, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác 281,2 nghìn m3, tăng 1%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 15,8 triệu cây, tăng 1,2%. Tính chung 7 tháng, diện tích rừng trồng tập trung đạt 117,9 nghìn ha, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2007; sản lượng gỗ khai thác 1684,4 nghìn m3, tăng 1,1%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 125,6 triệu cây, giảm 0,3%.
Tình trạng cháy rừng và chặt phá rừng tuy vẫn xảy ra nhưng đã giảm nhờ công tác kiểm lâm được tăng cường và thời tiết mưa nhiều. Trong 7 tháng đầu năm, cả nước có 2.237,4 ha diện tích rừng bị thiệt hại, trong đó diện tích rừng bị cháy là 951 ha.
Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng 7-2008 ước tính đạt 427,5 nghìn tấn, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nuôi trồng đạt 251 nghìn tấn, tăng 21,5%; khai thác đạt 176,5 nghìn tấn, tăng 2,7%. Nuôi trồng thủy sản hiện đang gặp nhiều khó khăn do giá thức ăn tiếp tục tăng trong khi giá cá thịt và giá xuất khẩu thủy sản chế biến giảm, cá tra đến thời kỳ thu hoạch nhưng không tiêu thụ được. Một số địa phương có lượng cá tồn đọng nhiều là: An Giang 25 nghìn tấn; Đồng Tháp trên 27 nghìn tấn; Cần Thơ 12 nghìn tấn; Vĩnh Long 11 nghìn tấn. Khai thác thủy sản thuận lợi hơn do đang vào vụ cá nam là vụ đánh bắt chính trong năm và chưa bị ảnh hưởng nhiều của mưa bão.
Tính chung 7 tháng, sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.551,5 nghìn tấn, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước (Cá đạt 1.986,4 nghìn tấn, tăng 14,1%; tôm 231,6 nghìn tấn, tăng 1,5%), trong đó nuôi trồng 1.296 nghìn tấn tăng 25%; khai thác 1.255,5 nghìn tấn, tăng 0,1%.
*Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7-2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 6,7%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 22,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,9% (dầu mỏ và khí đốt giảm 5,4%, các sản phẩm khác tăng 19,3%). Sản xuất công nghiệp tháng 7 tăng chậm hơn mức tăng của tháng trước chủ yếu do giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tiếp tục tăng và đứng ở mức cao nên quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn.
Tính chung 7 tháng đầu năm nay, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 382,3 nghìn tỉ đồng, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó khu vực kinh tế nhà nước đạt 86,8 nghìn tỉ đồng, tăng 6,7% (trung ương quản lý tăng 9,4%, địa phương quản lý giảm 1,3%); khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt 136,9 nghìn tỉ đồng, tăng 22,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 158,7 nghìn tỉ đồng, tăng 17,3% (dầu mỏ và khí đốt giảm 7%, các sản phẩm khác tăng 19,9%).
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung là: Xe tải tăng 96,2%; xe chở khách tăng 78,6%; máy giặt tăng 54,2%; sữa bột tăng 36,6%; tivi tăng 34,4%; tủ lạnh, tủ đá tăng 27%; xà phòng tăng 25,5%; biến thế điện tăng 23,7%; quần áo người lớn tăng 21,8%; thủy hải sản chế biến tăng 20,8%; dầu thực vật tinh luyện tăng 19,1%. Tuy nhiên, một số sản phẩm quan trọng khác có tốc độ tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất điện tăng 13,8%; nước máy thương phẩm tăng 13,3%; xi măng tăng 11,8%; xe máy tăng 6,3%; sơn hoá học tăng 5,5%; phân hóa học tăng 4,9%; than sạch tăng 4,9%; thép tròn tăng 4,7%; dầu thô giảm 6%; điều hòa nhiệt độ giảm 2,1%; khí đốt thiên nhiên giảm 0,2%.
Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn vẫn duy trì được tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh, thành phố có mức tăng cao hơn mức tăng chung của cả nước là: Vĩnh Phúc tăng 30,9%; Hà Tây tăng 25,4%; Bình Dương tăng 24,4%; Hải Dương tăng 23,6%; Đồng Nai tăng 20,2%; Hải Phòng tăng 18,2%; Phú Thọ tăng 16,6%. Hai trung tâm công nghiệp lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạt tốc độ tăng 14,7% và 13%; riêng Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 3,8% do sản lượng dầu thô khai thác tiếp tục giảm.
*Đầu tư
Thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tháng 7-2008 ước tính đạt 8,6 nghìn tỉ đồng, bằng 8,8% kế hoạch năm, trong đó vốn trung ương quản lý 2,4 nghìn tỉ đồng, bằng 7,3%; vốn địa phương quản lý 6,2 nghìn tỉ đồng, bằng 9,5%. Tính chung 7 tháng đầu năm 2008, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ước tính thực hiện 47,7 nghìn tỉ đồng, bằng 48,6% kế hoạch năm, trong đó vốn trung ương quản lý 14,3 nghìn tỉ đồng, bằng 43,2%; vốn địa phương quản lý 33,4 nghìn tỉ đồng, bằng 51,3%.
Nhìn chung, vốn đầu tư thực hiện của các bộ, ngành và địa phương trong 7 tháng đầu năm nay đạt thấp so với kế hoạch năm chủ yếu do giá nguyên vật liệu biến động. Một số bộ có khối lượng thực hiện đạt trên 50% kế hoạch năm là: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1.008,2 tỉ đồng, bằng 60,5%; Bộ Công Thương 128,6 tỉ đồng, bằng 54,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 582,9 tỉ đồng, bằng 52%; Bộ Y tế 480,4 tỉ đồng, bằng 51,5%. Một số địa phương thực hiện nhanh tiến độ là: Lâm Đồng 666,2 tỉ đồng, bằng 84,5%; Quảng Trị 627,9 tỉ đồng, bằng 81,2%; Yên Bái 458,8 tỉ đồng, bằng 78,4%; Thái Nguyên 398,8 tỉ đồng, bằng 62,8%; Bà Rịa - Vũng Tàu 1,2 nghìn tỉ đồng, bằng 61,6%; Ninh Thuận 316 tỉ đồng, bằng 60%; Đà Nẵng 1,5 nghìn tỉ đồng, bằng 59,7%; Thừa Thiên - Huế 537,7 tỉ đồng, bằng 59,4%;
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2008 về việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008, phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát, tính đến 15-7-2008, đã có 36 Bộ, cơ quan trung ương; 64 địa phương và 31 tập đoàn kinh tế, tổng công ty 90, 91 báo cáo tình hình thực hiện Quyết định với kết quả như sau: Tổng số công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước hoãn khởi công mới trong năm, ngừng triển khai và giãn tiến độ thực hiện kế hoạch năm 2008 là 1.968 dự án với tổng số vốn là 5.992 tỉ đồng, bằng 8% kế hoạch năm 2008, trong đó số dự án hoãn khởi công và ngừng triển khai thực hiện là 1.203 dự án với số vốn là 1.881 tỉ đồng; số dự án giãn tiến độ thực hiện là 765 dự án với số vốn là 4.111 tỉ đồng.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tiếp tục tăng cao, trong tháng 7-2008 cả nước có 167 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 13,5 tỉ USD, nâng tổng số dự án cấp mới từ đầu năm đến 22-7-2008 của cả nước lên 654 dự án với tổng số vốn đăng ký 44,5 tỉ USD. So với cùng kỳ năm trước số dự án giảm 23,2% nhưng tổng số vốn đăng ký tăng 446,4%. Nếu tính cả 788,6 triệu USD vốn đăng ký bổ sung của 188 lượt dự án được cấp phép trong các năm trước thì tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến 22-7-2008 đạt 45,3 tỉ USD, tăng 373,5% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài thực hiện 7 tháng đầu năm nay ước tính đạt 6 tỉ USD, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm 2007.
Số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép 7 tháng đầu năm nay tập trung chủ yếu vào khu vực công nghiệp gồm 381 dự án với 21,5 tỉ USD, chiếm 58,3% số dự án và chiếm 48,2% tổng vốn đăng ký; khu vực dịch vụ 243 dự án với 22,8 tỉ USD, chiếm 37,1% số dự án và chiếm 51,4% tổng vốn đăng ký; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 30 dự án với 194 triệu USD, chiếm 4,6% số dự án và chiếm 0,4% tổng vốn đăng ký.
Trong số 42 địa phương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép 7 tháng qua, Bà Rịa - Vũng Tàu có số vốn đăng ký lớn nhất với 9,3 tỉ USD, chiếm 21% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh 7,9 tỉ USD, chiếm 17,8%; Hà Tĩnh 7,88 tỉ USD, chiếm 17,7%; Thanh Hóa 6,2 tỉ USD, chiếm 13,9%; Phú Yên 4,3 tỉ USD, chiếm 9,8%; Đồng Nai 1,8 tỉ USD, chiếm 4%; Kiên Giang 1,6 tỉ USD, chiếm 3,7%.
Các dự án được cấp phép trong 7 tháng đầu năm nay thuộc 35 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Đài Loan dẫn đầu về vốn đăng ký với 8,4 tỉ USD, chiếm 18,9% tổng vốn đăng ký; Nhật Bản 7,2 tỉ USD, chiếm 16,2%; Ma-lai-xi-a 5,1 tỉ USD, chiếm 11,4%; Bru-nây 4,4 tỉ USD, chiếm 9,9%; Ca-na-đa 4,2 tỉ USD, chiếm 9,5%; Xin-ga-po 4 tỉ USD, chiếm 9%; Thái Lan 3,98 tỉ USD, chiếm 8,9%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 3 tỉ USD, chiếm 6,8%; Hoa Kỳ 1,4 tỉ USD, chiếm 3,1%.
Tổng vốn ODA ký kết tính đến 20-7-2008 đạt 1.389 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 1.277 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 112 triệu USD. Giải ngân vốn ODA 7 tháng đầu năm nay (bao gồm cả vốn được ký kết trước 2008) đạt 1.205 triệu USD, bằng 63% kế hoạch năm, trong đó vốn vay đạt 1.063 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại đạt 142 triệu USD. Trong tổng vốn giải ngân, vốn vay của 3 nhà tài trợ lớn là WB, JBIC, ADB đạt mức giải ngân cao nhất với 850 triệu USD, chiếm 70% tổng vốn giải ngân.
*Thương mại, giá cả và dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7-2008 ước tính đạt 79,5 nghìn tỉ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước, trong đó thương nghiệp đạt 65,3 nghìn tỉ đồng, tăng 2,1%; khách sạn, nhà hàng đạt 9,2 nghìn tỉ đồng, tăng 3,7%; dịch vụ đạt 4 nghìn tỉ đồng, tăng 2,2%; du lịch đạt 1 nghìn tỉ đồng, tăng 4,7%.
Tính chung 7 tháng đầu năm 2008, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế ước tính đạt 527,5 nghìn tỉ đồng, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó thương nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất với 82,4%, đạt 434,8 nghìn tỉ đồng và tăng 30,2%; khách sạn, nhà hàng đạt 59,5 nghìn tỉ đồng, tăng 24,9%; dịch vụ đạt 26 nghìn tỉ đồng, tăng 30%; du lịch đạt 7,2 nghìn tỉ đồng, tăng 47,6%.
Giá tiêu dùng
Giá tiêu dùng tháng 7-2008 tăng 1,13% so với tháng trước (chưa bao gồm tác động của giá xăng dầu trong nước tăng vào ngày 21-7-2008), là tháng có tốc độ tăng giá thấp nhất trong vòng 7 tháng đầu năm nay. Trong đó các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Dược phẩm, y tế tăng 2%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,67%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,53%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,4%. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác giảm hoặc tăng thấp hơn mức tăng chung, gồm: Giáo dục tăng 1,02%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,99% (lương thực giảm 0,37%; thực phẩm tăng 1,33%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,98%; văn hoá, thể thao, giải trí tăng 0,85%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 0,55%.
So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 7-2008 tăng 27,04%; so với tháng 12-2007, giá tiêu dùng tháng 7-2008 tăng 19,78%. Giá tiêu dùng bình quân 7 tháng năm 2008 so với 7 tháng năm 2007 tăng 21,28%.
Giá vàng tháng 7-2008 tăng 3,2% so với tháng 6-2008, tăng 19,99% so với tháng 12-2007 và tăng 46,38% so với cùng kỳ năm trước. Giá đô la Mỹ tháng 7-2008 tăng 1,83% so với tháng trước, tăng 6,94% so với tháng 12 năm trước và tăng 6,58% so với tháng 7-2007.
Đến thời điểm này, các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tiếp tục phát huy tác dụng, giá tiêu dùng đã giảm dần. Tuy nhiên, giá xăng dầu tăng sẽ tác động đến giá của nhiều hàng hóa và dịch khác trong những tháng tới, vì vậy để bình ổn giá cần giám sát chặt chẽ thị trường; không để xảy ra tình trạng đầu cơ, nâng giá tùy tiện; các doanh nghiệp, các tổ chức và từng người dân phải thích ứng dần với quy luật kinh tế thị trường; thực hiện tiết kiệm và tính toán chi phí hợp lý.
Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tháng 7-2008 ước tính đạt 6,25 tỉ USD, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 47,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 2,86 tỉ USD, tăng 53,8% so với cùng kỳ năm trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô đạt 2,25 tỉ USD, tăng 34,1%. Hầu hết các mặt hàng đều tăng về kim ngạch, trong đó dầu thô tăng 60,8%; gạo tăng 64,3%; hàng dệt may tăng 22,2%; giày dép tăng 25,7%; thuỷ sản tăng 25,7%.
Tính chung 7 tháng, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu đạt 36,88 tỉ USD, tăng 37,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 16,47 tỉ USD, tăng 40,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô đạt 13,6 tỉ USD, tăng 28,9%.
Trong 7 tháng qua có 8 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỉ USD là: Dầu thô 6,8 tỉ USD, tăng 52,2% (lượng giảm 12,1%); hàng dệt may 5,1 tỉ USD, tăng 20,5%; giày dép 2,8 tỉ USD, tăng 18,4%; thuỷ sản 2,3 tỉ USD, tăng 17,7%; gạo 1,8 tỉ USD, tăng 87,6% (lượng giảm 6,8%); sản phẩm gỗ 1,6 tỉ USD, tăng 21,3%; điện tử, máy tính 1,4 tỉ USD, tăng 29,4%; cà phê 1,4 tỉ USD, tăng 3,8% (lượng giảm 25,9%).
Trong 6 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường châu Á đạt 15,25 tỉ USD, chiếm 49,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng 42,5% so với cùng kỳ năm 2007 gồm một số mặt hàng chủ yếu là: Dầu thô 3,19 tỉ USD; gạo 896 triệu USD; máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 794 triệu USD; thủy sản 780 triệu USD; hàng dệt may 649 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt 5,43 tỉ USD, tăng 19,3% với các mặt hàng chính là: Hàng dệt may 2,4 tỉ USD; giày dép 495 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ 495 triệu USD; dầu thô 476 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đạt 5,26 tỉ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giày dép đạt 1,2 tỉ USD; hàng dệt may 772 triệu USD; cà phê 549 triệu USD; hải sản 501 triệu USD.
Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu tháng 7-2008 ước tính 7,05 tỉ USD, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 31,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước 4,65 tỉ USD, tăng 41,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2,4 tỉ USD, tăng 23,4%. Một số mặt hàng có lượng nhập khẩu giảm so với tháng trước là: ô tô nguyên chiếc giảm 23,1% (giảm 0,9 nghìn chiếc); xăng dầu giảm 7,3%; phân bón giảm 9,1%.
Tính chung 7 tháng, giá trị hàng hoá nhập khẩu ước tính 51,89 tỉ USD, tăng 56,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập khẩu 35,47 tỉ USD, tăng 70,4%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 16,42 tỉ USD, tăng 40,5%.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và vật tư, nguyên, nhiên vật liệu quan trọng cho sản xuất vẫn tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhiều mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn có mức tăng kim ngạch cao hơn nhiều so với mức tăng sản lượng do giá nhập khẩu tiếp tục tăng. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 8,2 tỉ USD, tăng 40,3% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu 7,8 tỉ USD, tăng 90,7% (lượng tăng 11,4%); sắt thép 5 tỉ USD, tăng 96,6% (lượng tăng 52,7%); phân bón 1,1 tỉ USD, tăng 118,9% (lượng tăng 10,7%); chất dẻo 1,8 tỉ USD, tăng 38,8% (lượng tăng 18,9%); vải 2,7 tỉ USD, tăng 18,3%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu 1,2 tỉ USD, tăng 78,3%. Riêng ô tô nguyên chiếc tăng 265,1% về kim ngạch và tăng 290,1% về lượng nhưng lượng nhập đã có xu hướng giảm dần trong những tháng gần đây, tháng 5 nhập 7,8 nghìn chiếc; tháng 6 nhập 3,9 nghìn chiếc; tháng 7 nhập 3 nghìn chiếc.
Kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm nay từ thị trường châu Á ước tính 35,7 tỉ USD, tăng 58,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 5,13 tỉ USD; dầu DO 3,5 tỉ USD; sắt, thép 3,03 tỉ USD. Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nước xuất khẩu sang Việt Nam với 8,76 tỉ USD gồm một số mặt hàng chủ yếu như: Máy móc, thiết bị 1,8 tỉ USD; sắt, thép 1,72 tỉ USD; vải 754 triệu USD.
Nhập siêu tháng 7 ước tính 800 triệu USD, tăng 10% so với tháng trước và giảm 28,3% so với cùng kỳ năm 2007. Tính chung 7 tháng đầu năm 2008, nhập siêu ước tính 15,01 tỉ USD, tăng 137,7% so với 7 tháng năm 2007 và bằng 40,7% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước một phần do giá nhập khẩu tăng, trong đó giá của 4 mặt hàng: xăng dầu, sắt thép, phân bón và chất dẻo tăng đã đẩy kim ngạch nhập khẩu tăng thêm 5,14 tỉ USD. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của 4 mặt hàng trên thì kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm nay là 46,75 tỉ USD, tăng 41,3%.
Vận tải hành khách và hàng hoá
Vận chuyển hành khách 7 tháng năm 2008 ước tính đạt 1.076,3 triệu lượt khách và 49 tỉ lượt khách.km, tăng 11,8% về lượt khách và tăng 9,4% về lượt khách.km so với cùng kỳ năm trước. Các đơn vị vận tải do trung ương quản lý vận chuyển 19 triệu lượt khách và đạt 11,6 tỉ lượt khách.km, tăng 14,8% về lượt khách và tăng 6,1% về lượt khách.km; các đơn vị vận tải do địa phương quản lý vận chuyển 1.057,3 triệu lượt khách và đạt 37,4 tỉ lượt khách.km, tăng 11,8% về lượt khách và tăng 10,5% về lượt khách.km. Trong các ngành vận tải, vận chuyển hành khách đường bộ có tốc độ tăng trưởng lớn nhất với 970,7 triệu lượt khách và 35,8 tỉ lượt khách.km, tăng 12,7% về lượt khách và tăng 11,6% về lượt khách.km so với cùng kỳ năm trước; đường hàng không tăng 10% về lượt khách và tăng 6,4% về lượt khách.km; đường biển tăng 5,6% và tăng 6,9%; đường sông tăng 4% và tăng 5%. Riêng vận chuyển hành khách bằng đường sắt giảm 2,5% về số lượt khách và giảm 4,3% về số lượt khách.km.
Vận chuyển hàng hóa 7 tháng đầu năm nay ước tính đạt 297,8 triệu tấn và đạt 98,6 tỉ tấn.km, tăng 10,1% về số tấn và tăng 38,7% về số tấn.km so với cùng kỳ năm 2007. Vận tải hàng hóa của các ngành vận tải đều tăng cả về khối lượng vận chuyển và khối lượng luân chuyển so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải đường biển đạt tốc độ tăng cao nhất với khối lượng vận chuyển tăng 25% và khối lượng luân chuyển tăng 45%; đường bộ tăng 10,1% và tăng 19,9%; đường sông tăng 4,3% và tăng 5,6%; đường sắt tăng 2,2% và tăng 14%; đường hàng không tăng 18% và tăng 26%.
Du lịch
Khách quốc tế đến Việt Nam 7 tháng đầu năm 2008 ước tính đạt 2,6 triệu lượt người, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch có số lượng lớn nhất với trên 1,6 triệu lượt người, tăng 3,1%; khách đến vì công việc đạt 505,5 nghìn lượt người, tăng 38,4%; thăm thân nhân đạt trên 348,8 nghìn lượt người, giảm 3%; khách đến với mục đích khác đạt 189,3 nghìn lượt người, giảm 7,2%. Khách quốc tế đến Việt Nam chủ yếu bằng đường hàng không với trên 2 triệu lượt người, chiếm 77,6% tổng số và tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2007.
Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta đông vẫn duy trì được tốc độ tăng cao là: Đài Loan đạt 196 nghìn lượt người, tăng 6,8%; Thái Lan 132,6 nghìn lượt người, tăng 41,6%; Ma-lai-xi-a 102,6 nghìn lượt người, tăng 21,6%; Xin-ga-po 93,1 nghìn lượt người, tăng 27,5%; Phi-li-pin 28,4 nghìn lượt người, tăng 55,1%. Bên cạnh đó, một số nước có lượng khách đến nước ta tuy không nhiều nhưng tăng cao so với cùng kỳ năm 2007 là: Phần Lan tăng 61,4%; Na-uy tăng 44,9%; Thụy Điển tăng 24,9%. Tuy nhiên, một số nước có lượng khách đến nước ta khá đông nhưng giảm so với cùng kỳ năm trước như: Trung Quốc đạt 297 nghìn lượt người, giảm 8,3%; Hàn Quốc 277,4 nghìn lượt người, giảm 6,3%; Nhật Bản 227,4 nghìn lượt người, giảm 4,2%; Hoa Kỳ đạt gần 250 nghìn lượt người, giảm 3,7%.
Bưu chính viễn thông
Số thuê bao điện thoại phát triển mới 7 tháng đầu năm 2008 ước tính đạt 12,9 triệu thuê bao, tăng 14,1% so với 7 tháng năm 2007. Tính đến hết tháng 7-2008, trên cả nước có 64,8 triệu thuê bao điện thoại, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông đạt 34,9 triệu thuê bao. Số thuê bao internet phát triển mới trong 7 tháng ước tính đạt 815,3 nghìn thuê bao, nâng tổng số thuê bao đến hết tháng 7-2008 lên hơn 6 triệu thuê bao. Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông 7 tháng ước tính đạt 39,2 nghìn tỉ đồng, tăng 35,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông đạt 26,3 nghìn tỉ đồng, tăng 18,9%.
Thu, chi ngân sách
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến ngày 15-7-2008 ước tính bằng 66,7% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 61,9%; thu từ dầu thô bằng 71,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 75,8%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 59%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 52,7%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 59,7%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng 75,5%; thu phí xăng dầu bằng 53,2%; thu phí, lệ phí bằng 55,4%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15-7-2008 ước tính bằng 56,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 48,7% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 47,5%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (gồm cả chi cải cách tiền lương) bằng 57,5%; chi trả nợ và viện trợ bằng 57,7%.
Số phòng khách sạn tại Việt Nam tăng hơn 200%  (01/08/2008)
Xuất khẩu hàng điện tử đạt 1,44 tỉ USD trong 7 tháng  (01/08/2008)
2.100 tỉ đồng ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo”  (01/08/2008)
Tác động của tăng trưởng kinh tế đối với vấn đề lao động - việc làm và an sinh xã hội  (01/08/2008)
Để Thủ đô Hà Nội đẹp hơn  (01/08/2008)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm