Không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị - một nhân tố quyết định thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam
Bản lĩnh vượt qua những thách thức lịch sử
Sự thành công của một đảng chính trị phụ thuộc vào nhiều nhân tố chủ yếu: Đảng phải có nền tảng lý luận vững chắc của hệ tư tưởng giai cấp tiên tiến; có đường lối khoa học, đúng đắn; có hệ thống tổ chức chặt chẽ, vững chắc; có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; có khả năng tập hợp, phát huy cao độ sức mạnh của đông đảo quần chúng, luôn được quần chúng ủng hộ; có đội ngũ đảng viên đủ mạnh để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra... Bên cạnh đó, với tư cách là một đảng chính trị, một nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của đảng chính là bản lĩnh chính trị.
Bản lĩnh chính trị chính là nhân tố tổng hợp của lập trường chính trị, phẩm chất chính trị, năng lực chính trị, dũng khí chính trị. Bản lĩnh chính trị thể hiện ở sự vững vàng, kiên định, không dao động trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; quyết tâm phấn đấu, vượt mọi thử thách mà cuộc sống đặt ra để đạt được mục tiêu đã định. Bản lĩnh chính trị thường lộ diện rõ ràng ở các bước ngoặt lịch sử, trong các tình thế hiểm nghèo mà đảng chính trị gặp phải.
Với Đảng Cộng sản Việt Nam, bản lĩnh chính trị của Đảng được thể hiện trên nhiều phương diện, như kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì thực hiện mục tiêu và chiến lược đã định trong mọi tình thế; chủ động, sáng tạo hoạch định chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn, quyết tâm tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng; tập hợp đông đảo, tổ chức chặt chẽ và phát huy cao độ sức mạnh của các lực lượng cách mạng; đấu tranh trường kỳ, gian khổ và sáng tạo trước kẻ thù; nhận diện đúng và dũng cảm vượt lên những sai lầm, khuyết điểm,... Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện rõ nhất trong những hoàn cảnh lịch sử hết sức khó khăn, hiểm nghèo, tưởng chừng khó có thể vượt qua. Chín mươi năm qua đã nhiều lần tình huống như vậy xuất hiện, thử thách bản lĩnh và quyết tâm của Đảng.
Ngay khi ra đời, Đảng lập tức lãnh đạo nhân dân tiến hành Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Thực dân Pháp và tay sai đã thẳng tay khủng bố phong trào cách mạng. Hàng vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước đã bị bắt, tù đày và giết hại, trong đó có cả đồng chí Tổng Bí thư của Đảng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị thực dân Anh cấu kết với thực dân Pháp bắt giam ở Hương Cảng (Trung Quốc). Hệ thống tổ chức của Đảng bị phá vỡ nghiêm trọng. Trong hoàn cảnh đó, đa số đảng viên của Đảng vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Đường lối của Đảng vẫn được các đảng viên và quần chúng trung kiên quyết tâm thực hiện. Nhiều tổ chức đảng và đảng viên vẫn kiên cường bám trụ hoạt động, tiếp tục lãnh đạo phong trào. Các đảng viên bị kẻ địch giam cầm đã biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, tiếp tục học tập, đấu tranh bảo vệ và tuyên truyền đường lối của Đảng. Năm 1932, “Chương trình hành động” được công bố. Tháng 3-1935, Đảng tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất, hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục, tiếp tục đưa cách mạng bước vào một giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ bản lĩnh của Đảng ta trước thách thức nghiêm trọng đối với sự tồn vong của Đảng, ngay trong những năm tháng đầu tiên vừa thành lập khi lực lượng và tổ chức chưa được củng cố vững chắc, chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm đấu tranh. Nếu so sánh với một số đảng cộng sản khác trên thế giới trong hoàn cảnh tương tự đã không thể trụ vững và phục hồi, càng thấy rõ sức sống, bản lĩnh của Đảng ta ở thời điểm đó.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thủ tiêu các quyền lợi dân chủ mà nhân dân ta vừa giành được trước đó, ra sức khủng bố, đàn áp phong trào và tổ chức cách mạng. Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 kịp thời phân tích tình hình và bắt đầu chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Chủ trương này chứng minh sự trưởng thành trong nhận thức các quy luật khách quan, bản lĩnh vững vàng và tinh thần chủ động, sáng tạo của Trung ương Đảng. Khi phát-xít Nhật vào Đông Dương, nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Nhiều đảng viên bị địch bắt, tù đày hoặc lần lượt ngã xuống trong các cuộc tranh đấu, trong đó có các lãnh đạo cao cấp của Đảng, như các đồng chí Tổng Bí thư, Thường vụ Trung ương Đảng. Trong bối cảnh cam go đó, chỉ với vài nghìn đảng viên đang hoạt động, Đảng vẫn kiên cường chuẩn bị các điều kiện, để khi thời cơ cách mạng xuất hiện, đã chủ động lãnh đạo nhân dân tiến hành thành công, nhanh chóng và ít đổ máu cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, khôi phục nền độc lập.
Năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong hoàn cảnh vừa giành được chính quyền, chưa có kinh nghiệm cầm quyền, chưa trực tiếp nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm. Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, bản lĩnh của Đảng đã thể hiện rõ trong việc lãnh đạo công cuộc kháng chiến và kiến quốc; vừa kiên quyết giữ vững nguyên tắc và đường lối chiến lược, vừa mềm dẻo về sách lược trong đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài. Nhờ vậy, nội lực cách mạng được tăng cường về mọi mặt, các thế lực phản động bị trấn áp, một số kẻ thù bên ngoài bị đẩy lùi, tạo điều kiện để lực lượng cách mạng tập trung đấu tranh với kẻ thù chính là thực dân Pháp. Từ hoàn cảnh phải tuyên bố “tự giải tán”, thực chất là rút vào hoạt động bí mật sau một thời gian ngắn ra hoạt động công khai, Đảng vẫn không ngừng lớn mạnh về tổ chức và đội ngũ đảng viên, vững vàng lãnh đạo cách mạng toàn quốc.
Chủ động hòa hoãn với Pháp để kéo dài thời gian hòa bình cần thiết, nhưng khi bị đẩy tới giới hạn cuối cùng của sự nhân nhượng, ngày 19-12-1946, Đảng kiên quyết, chủ động phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, không để bị đẩy qua ranh giới giữa nhân nhượng có nguyên tắc và sự đầu hàng. Đây là một quyết định hết sức đúng đắn và kịp thời, thể hiện sự bình tĩnh, tự tin và chủ động của Đảng. Với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Đảng sớm hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; đã xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa chiến tranh và cách mạng, giữa dân tộc và quốc tế; không rập khuôn, giáo điều và không ngừng được bổ sung, phát triển tại các thời điểm quan trọng, tạo ra những bước chuyển lớn, đưa kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Từ giữa những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế và trong nước diễn biến phức tạp: Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta; Đảng mắc phải sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở cơ sở nông thôn; giữa một số nước xã hội chủ nghĩa còn có những bất đồng. Trong hoàn cảnh đó, bản lĩnh của Đảng lại được khẳng định khi dũng cảm thừa nhận sai lầm, kiên quyết sửa sai trong cải cách ruộng đất. Đảng xác định đường lối tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Cách mạng Việt Nam phải đương đầu với đế quốc Mỹ, một kẻ thù giàu mạnh, đã gây cho cách mạng miền Nam những tổn thất to lớn. Trong tình thế đó, Đảng xác định rõ phải sử dụng bạo lực cách mạng để chiến đấu và chiến thắng bạo lực phản cách mạng, bằng “Đồng khởi” để chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công; từng bước đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, và khi tình thế cách mạng xuất hiện thì với tinh thần “một ngày bằng 20 năm” lãnh đạo toàn dân tổng tiến công và nổi dậy làm nên thắng lợi lịch sử Mùa Xuân năm 1975, giành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Từ cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, cũng như những nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa khi đó, Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thập niên 80, trong khi các đảng cộng sản ở các nước Đông Âu và Liên Xô lãnh đạo công cuộc cải cách, cải tổ không thành công, lâm vào ngõ cụt, chệch hướng xã hội chủ nghĩa và hậu quả là mất quyền lãnh đạo, thì với bản lĩnh chính trị vững vàng, dám nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước, từng bước hình thành tư duy mới, quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau Đại hội VI, nước ta lại phải đối mặt với những khó khăn, thách thức tưởng chừng không thể vượt qua. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng. Việt Nam không còn sự ủng hộ truyền thống, lại chịu sự bao vây, cấm vận, chống phá của các thế lực thù địch. Lúc này trong Đảng và ngoài xã hội xuất hiện nhiều luồng tư tưởng khác nhau, về đổi mới hay không đổi mới, đổi mới bằng con đường nào... Hội nghị Trung ương sáu khóa VI (năm 1989) đề ra nguyên tắc cơ bản bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; thể hiện rõ sự vững vàng, bản lĩnh chính trị và sự nhạy cảm chính trị của Đảng trước những diễn biến rất phức tạp của tình hình trong nước và thế giới; bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới thành công, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, bảo vệ và vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Cuối thập niên 80 và những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trong khi công cuộc đổi mới đạt một số kết quả bước đầu, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn gay gắt thì cũng là lúc chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã tác động toàn diện và mạnh mẽ đến cách mạng nước ta. Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, bằng những chủ trương kịp thời và chính xác, Đảng đã bình tĩnh và kiên quyết lãnh đạo nhân dân giữ vững ổn định chính trị, vượt qua những thử thách gay gắt do sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước gây ra. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới và nắm bắt sâu sắc lý luận, Đại hội XI của Đảng (năm 2011) bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm sáng rõ hơn nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ cuối năm 2007, thế giới diễn ra khủng hoảng tài chính dẫn tới suy thoái kinh tế toàn cầu; trong nước, lạm phát gia tăng, giá cả leo thang. Trước những khó khăn, thách thức mới, Đảng kịp thời đưa ra những chủ trương, giải pháp nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, chủ động phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, nâng cao chất lượng nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng còn được thể hiện ở thái độ dám thừa nhận và kiên quyết sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đã có lúc do ấu trĩ, nóng vội, “tả” khuynh, dẫn đến việc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm. Thực tế đã chứng minh, trước những sai lầm, khuyết điểm, Đảng luôn thẳng thắn nhận sai lầm, khuyết điểm về mình, nghiêm túc tự phê bình, kiên quyết sửa chữa và sửa chữa thành công. Đảng ta đã từng “Tự chỉ trích”, “Tự chỉnh đốn”, thường xuyên “Sửa đổi lối làm việc”, đồng thời thực hiện “xây” và “chống”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”,... Đây là bản lĩnh chính trị của tinh thần vượt lên chính mình, kiên quyết tẩy bỏ những gì đã thoái hóa, lỗi thời, dám tự đổi mới chính mình để giữ vững sứ mệnh tiên phong của Đảng.
Như vậy, nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng Đảng ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức mà có những lúc tưởng chừng như không thể vượt qua và thực tế là có những đảng cộng sản khác trên thế giới đã không thể vượt qua trong những hoàn cảnh tương tự. Đảng đã mạnh dạn tiến hành thành công cả những việc chưa có tiền lệ và cũng do có bản lĩnh chính trị vững vàng nên Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa dân tộc và thời đại. Cũng vì có bản lĩnh chính trị vững vàng nên trong bối cảnh càng khó khăn thì Đảng lại càng kiên trì, quyết liệt hành động; tình hình càng biến động phức tạp, Đảng càng kiên định, giữ vững nguyên tắc, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng đến thành công.
Rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng hiện nay
Bản lĩnh chính trị thường là kết quả của một quá trình dài trải nghiệm và rèn luyện, nhưng với Đảng ta, bản lĩnh chính trị sớm được định hình và không ngừng được nâng cao. Bản lĩnh ấy bắt nguồn ở chỗ Đảng là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa 3 nhân tố: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng được lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin soi đường và luôn vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Đảng mang trong mình bản chất của giai cấp công nhân và không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đặc biệt, Đảng Cộng sản Việt Nam còn kế thừa trực tiếp những giá trị tốt đẹp của dân tộc, mà giá trị chủ đạo là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đảng ta có chiều sâu sức mạnh từ trong lịch sử hàng ngàn năm của một dân tộc kiên cường dựng nước và giữ nước; đồng thời, quy tụ được sức mạnh của toàn thể nhân dân thuộc tất cả các giai tầng yêu nước, có chung mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Có được bản lĩnh chính trị vững vàng còn xuất phát từ việc Đảng luôn nhận thức được sứ mệnh của mình với giai cấp, với nhân dân, với đất nước - mà nếu không giữ vững, nâng cao bản lĩnh chính trị thì không thể đảm đương được sứ mệnh đó.
Đảng ta có được bản lĩnh chính trị vững vàng bởi trong mọi hoàn cảnh Đảng luôn vững tin vào sự đúng đắn, tính khoa học, tinh thần bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được hiện thực hóa trong mọi mặt của đời sống xã hội. Dù đã trải qua nhiều thăng trầm, khó khăn, thách thức nhưng Đảng luôn vững tin vào sức mạnh của nhân dân, sẵn sàng đấu tranh gian khổ vì quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhân dân và biết cách tập hợp, phát huy sức mạnh của nhân dân.
Có được bản lĩnh vững vàng còn nhờ Đảng không ngừng rèn luyện ý chí cách mạng, tinh thần đấu tranh, củng cố và đổi mới tổ chức, tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Qua các chặng đường cách mạng, Đảng kịp thời và nghiêm túc đúc kết kinh nghiệm, rèn luyện bản lĩnh và ý chí cách mạng cho đảng viên và quần chúng, tạo sự chủ động trước các tình huống mới, sẵn sàng đối mặt với những thách thức mới. Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng còn biểu hiện và có nguyên nhân từ việc Đảng luôn quan tâm tự đổi mới và chỉnh đốn, nghiêm túc nhìn nhận và kiên quyết đấu tranh với những hạn chế, yếu kém trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng. Qua đó, Đảng không ngừng tự hoàn thiện mình, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.
Công cuộc đổi mới của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đầy bản lĩnh và sáng tạo của Đảng đã thu được nhiều thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đang nỗ lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mạnh mẽ, mở ra nhiều vận hội to lớn. Tuy vậy, Đảng ta và nhân dân ta vẫn đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức không nhỏ, khó lường. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài và gian truân với nhiều khó khăn, thách thức đặt ra. Có những vấn đề phát sinh từ chính sự phát triển. Có nguy cơ đang rình rập từ bên ngoài; có nguy cơ nảy sinh ngay từ bên trong. Trước hết là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, sự phai nhạt lý tưởng chính trị, lập trường, quan điểm, suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang tiến hành có biểu hiện phát triển thiếu tính bền vững. Quốc phòng, an ninh đứng trước nhiều thách thức mới, đặc biệt là trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và các lợi ích chiến lược của đất nước. Các thế lực thù địch vẫn chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta một cách quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, nham hiểm. Những nguy cơ đó tiếp tục thử thách bản lĩnh của Đảng.
Trước tình hình đó, Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào”(1); và “Chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức”(2).
Về bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ hiện nay, Đảng nhận định: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện”(3).
Bên cạnh đó, Đảng cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm...”(4).
Bản lĩnh chính trị của Đảng được hợp thành từ bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là tổng hợp các phẩm chất đạt đến trình độ có thể quyết định một cách chủ động, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của mình trước những bước ngoặt và tình huống phức tạp về chính trị, thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên biểu hiện ở các phương diện, như sự vững vàng, kiên định và nhạy cảm trước những biến động chính trị - xã hội; tích cực tham gia vào các quá trình chính trị - xã hội trên cương vị, chức trách được giao; giải quyết chính xác, nhanh chóng và có hiệu quả những vấn đề nảy sinh ở cơ quan, đơn vị theo thẩm quyền. Khi mỗi đảng viên thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, luôn thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, có tinh thần vững vàng, niềm tin chắc chắn và sự kiên định thì “phú quý không dụ dỗ được ta, nghèo khổ không lay động được ta, oai lực không dọa nạt được ta. Mà khó khăn gì chúng ta cũng vượt qua được, việc gì chúng ta cũng làm được”(5).
Nhìn lại những thử thách khắc nghiệt trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng 90 năm qua, chúng ta càng tin tưởng rằng với bản lĩnh vững vàng của một Đảng cách mạng chân chính, lại được toàn dân tin tưởng và ủng hộ, nhất định Đảng sẽ vững tay chèo đưa dân tộc đến đích cuối cùng là xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
-----------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 199
(2), (3), (4) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 68, 45, 47
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 538
Tầm nhìn của Đảng về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI  (23/02/2020)
Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng trong tiến trình chín mươi năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam  (19/02/2020)
Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân  (17/02/2020)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển