TCCSĐT - Ngày 12-5, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị trực tuyến sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủvề "Đổi mới công tác tổ chức cán bộ và quản lý cơ sở giáo dục” tại 4 điểm: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ. Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân tham gia điều hành và phát biểu chỉ đạo Hội nghị tại điểm Hà Nội.

Báo cáo sơ kết của Ban chỉ đạo quốc gia thực hiện Quyết định 09/2005/QĐ-TTG (Đề án 09) và các báo cáo tham luận tại Hội nghị đã đánh giá những kết quả đạt được trong ba năm qua, đồng thời nêu những bất cập, hạn chế và khả năng đạt mục tiêu đã được đặt ra trong Đề án 09.
 
Những kết quả nổi bật

- Các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương và các cơ sở giáo dục - đào tạo đã chủ động xây dựng chương trình hành động cụ thể với nhiều giải pháp phù hợp, kịp thời, khả thi để tác động tích cực tới việc xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo vàcán bộ quản lý giáo dục trong toàn ngành.

- Đã ban hành được hệ thống văn bản về chế độ chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để từng bước cải thiện đời sống, điều kiện làm việc, nâng cao ý thức trách nhiệm của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

- Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng được củng cố, kiện toàn nâng cao về lượng và chất. Nhiều địa phương đã khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên ở các cấp học, bậc học. Tính đến năm học 2007-2008, cả nước có 1.055.078 nhà giáo; tăng 79.800 nhà giáo (7,56%) so với năm học 2004-2005; mức tăng bình quân là 3,58%/năm; tỷ lệ bình quân trẻ em/giáo viên giữa các vùng, miền đã có cải thiện đáng kể.

Chất lượng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có những chuyển biến tích cực, năng lực sư phạm được nâng lên, bước đầu đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học. Cơ cấu đội ngũ đã dần dần tiến tới sự hợp lý, đồng bộ. Tỷ lệ giáo viên có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn tăng cao, từ 78,60% (năm học 2004-2005) lên 89,1% (năm học 2007-2008), vượt mục tiêu đề ra cho năm 2010 là 9,1%;
 
Hệ thống các trường, khoa sư phạm và các trường, học viện cán bộ quản lý giáo dục đã có sự chuyển dịch hợp lý hơn theo hướng đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa và nâng cao trình độ của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục.
 
Những bất cập, khó khăn

- Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn thiếu ở mọi cấp học, bậc học và phân bố chưa đồng đều giữa các vùng miền; còn có tình trạng vừa thừa vừa thiếu giáo viên cục bộ. Một số chỉ tiêu được đặt ra đến năm 2010 có nguy cơ không thể thực hiện.

Ở bậc học mầm non: hiện tại bình quân ở nhà trẻ gần 11 cháu/ 1 giáo viên trong khi quy định của bộ là 8 cháu/1giáo viên; ở mẫu giáo hiện 20,9 cháu /1giáo viên - quy định từ 20 đến 25 cháu/1giáo viên).

Ở bậc tiểu học, hiện có 344.853 giáo viên, chiếm 32,66% tổng số giáo viên. Tỷ lệ bình quân giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo đạt 98,68% (năm học 2007- 2008), trong đó có 43,20% giáo viên trên chuẩn. Như vậy, trong 2 năm tới phải tập trung đào tạo, chuẩn hóa cho hơn 4.600 giáo viên tiểu học trong toàn quốc (chiếm 1,32%) để đạt mục tiêu của Quyết định 09 (100% giáo viên tiểu học đạt chuẩn).

Số lượng giáo viên tiểu học có xu hướng giảm(1) (tỷ lệ giảm bình quân hằng năm là 1,5%, xấp xỉ 5.000 giáo viên). So với yêu cầu dạy học 2 buổi/ngày (định mức là 1,50) thì số lượng giáo viên hiện nay mới chỉ đáp ứng được 86% nhu cầu, đặc biệt là còn thiếu giáo viên các môn Âm nhạc, Mỹ thuật Tin học, Thể dục, Ngoại ngữ.

Ở bậc trung học cơ sở: hiện có 312.759 giáo viên, chiếm 29,62% tổng số giáo viên. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo đạt 98,37 % (năm học 2007-2008), trong đó, có 30,43% trên chuẩn. Để đến năm 2010 có 100% giáo viên THCS đạt chuẩn (theo Quyết định 09), trong 2 năm tới phải đào tạo, chuẩn hóa cho 5.100 người (chiếm 1,63%).

Tỷ lệ giáo viên/lớp là 1,96 (năm học 2007-2008), vượt định mức quy định là 1,90. Nhưng do cơ cấu không đồng bộ nên vẫn thiếu giáo viên ở các môn: Tin học, Hoá học, Sinh học, Âm nhạc, Mỹ thuật, Công nghệ...

Ở cấp THPT, tổng số giáo viên là 134.246 người, chiếm 12,71%. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn là 98,00% (năm học 2007-2008), trong đó có 3,8% giáo viên có trình độ thạc sĩ trở lên. Để đạt chỉ tiêu đặt ra trong Đề án 09 là đến năm 2010 phải có 10% giáo viên THPT có trình độ thạc sĩ trở lên trong 2 năm tới phải đào tạo được 8.000 thạc sĩ cho các trường THPT. Con số này khó có khả năng đạt được.

Ở bậc đào tạo đại học: số lượng giảng viên tại các trường hiện là 38.217 người, chiếm 3,61% tổng số đội ngũ, mức tăng bình quân 14,20%/năm (trong đó, công lập là 11,60%/năm, ngoài công lập 16,40%/năm). Tỷ lệ giảng viên đại học có trình độ sau đại học đã tăng từ 36,53% (năm học 2005-2006) lên 40,35% (năm học 2007-2008), nhưng tỷ lệ có trình độ tiến sĩ lại có xu hướng giảm từ 15,56% xuống 14,77%(2). Đó là do số giảng viên có trình độ tiến sĩ đến tuổi nghỉ hưu nhiều hơn số giảng viên kế cận có trình độ tiến sĩ; mạng lưới trường được mở rộng, quy mô đào tạo tăng nhanh, số lượng giảng viên tăng nhanh, do đó làm giảm tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ.

Tỷ lệ bình quân sinh viên/giảng viên ở năm học 2007-2008 là 30,89, giảm so với năm học 2004-2005. So với chỉ tiêu đã đề ra tại Đề án 09 là 20 sinh viên/giảng viên thì với quy mô sinh viên như hiện nay cần phải tuyển thêm 21.783 giảng viên nữa, điều này rất khó thực hiện được trong vài năm tới.

Tổng số giảng viên ở các trường cao đẳng hiện nay là 17.903 người, chiếm 1,69% tổng số đội ngũ. Tỷ lệ giảng viên giữa các trường cao đẳng công lập và ngoài công lập không đồng đều. Phần lớn giảng viên biên chế ở các trường cao đẳng công lập. Tỷ lệ bình quân sinh viên/giảng viên là 23,32 (năm học 2007 - 2008). So với chỉ tiêu 20 sinh viên/giảng viên đặt ra tại Quyết định 09 thì tỷ lệ sinh viên/giảng viên ở thời điểm hiện tại vẫn ở mức cao.

Tỷ lệ giảng viên cao đẳng có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đã tăng từ 25,67% năm học 2005-2006) lên 28,41% (năm học 2007-2008); trong đó, số có trình độ tiến sĩ lại có xu hướng giảm từ 1,83% (năm học 2005-2006) xuống 1,36% (năm học 2007-2008)(3).

So với chỉ tiêu đặt ra trong Đề án 09, đến năm 2010 phải có 40% giảng viên đại học, cao đẳng có trình độ thạc sĩ, trên thực tế, chỉ tiêu này có thể đạt được ở các trường đại học nhưng khó có thể đạt đối với các trường cao đẳng. Riêng chỉ tiêu 25% giảng viên đại học, cao đẳng đạt trình độ tiến sĩ vào năm 2010, đối với các trường cao đẳng và nhiều trường đại học là không khả thi.

- Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chưa chuyên nghiệp trong công tác

Tính đến năm học 2007- 2008, cả nước có khoảng 134.700 cán bộ quản lý giáo dục CBQLGD, chiếm khoảng 11% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục. Trong đó, số cán bộ quản lý giáo dục làm việc ở cấp bộ, sở, phòng là khoảng 8.000 người, chiếm 5,90% tổng số cán bộ quản lý giáo dục toàn ngành. Số cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục là 126.770 người, chiếm 94,10%. Trong đó, mầm non khoảng 33.000 người, chiếm 24,40%; phổ thông và giáo dục thường xuyên trên 90.000, chiếm 66,80%; trung học chuyên nghiệp gần 900 người, chiếm 0,68%; dạy nghề hơn 1.500 người, chiếm 1,10%; cao đẳng, đại học khoảng 1.400 người, chiếm 1,00%.

Phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có trình độ đào tạo từ cao đẳng trở lên, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp có trình độ sau đại học còn chiếm tỷ lệ thấp. Cụ thể, tỷ lệ cán bộ quản lý giáo dục có trình độ cao đẳng trở lên ở Bộ Giáo dục và Đào tạo là 93%, ở Sở Giáo dục và Đào tạo là 86%, ở Phòng Giáo dục và Đào tạo là 83%; tỷ lệ có trình độ thạc sĩ ở khối sở và phòng chiếm 12,5%, trình độ tiến sĩ chiếm 0,5%...

Tỷ lệ được cấp chứng chỉ về quản lý giáo dục đối với cán bộ quản lý được bổ nhiệm ở sở là 36%, phòng là 62%. Chuyên viên thuộc sở và phòng là 13%. Tỷ lệ được cấp chứng chỉ về quản lý nhà nước đối với cán bộ quản lý được bổ nhiệm ở sở là 44%, phòng là 33%; chuyên viên thuộc sở và phòng là 9%. Mặc dù hầu hết cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đã đạt chuẩn trình độ đào tạo theo quy định, nhưng năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục các cấp và các cơ sở giáo dục chưa đáp ứng được những yêu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, còn hạn chế trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch; tham mưu, xây dựng chính sách; chỉ đạo, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn của bộ, ngành.

Đa số cán bộ quản lý giáo dục các cấp và các cơ sở giáo dục vẫn làm việc dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tính chuyên nghiệp thấp, trình độ ngoại ngữ, tin học còn rất hạn chế. Một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn chưa thực sự chuyên tâm với nghề nghiệp nên chưa làm tốt chức trách nhiệm vụ được giao.

Hội nghị kiến nghị với Chính phủ cho phép kéo dài thời gian thực hiện Đề án 09 đến năm 2012 để bảo đảm hoàn thành các chỉ tiêu đề ra đồng thời kiến nghị các bộ, ngành xây dựng các chế độ, chính sách để động viên đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục yên tâm công tác.

Để tiếp tục thực hiện hiệu quả Quyết định 09, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định, năm 2009- 2010, ngành giáo dục và đào tạo sẽ rà soát lại các trường sư phạm, không chấp nhận duy trì các trường cao đẳng sư phạm kém chất lượng. Ngành sẽ đẩy nhanh việc xây dựng bộ giáo trình dùng chung cho các trường sư phạm đồng thời xây dựng cơ chế quản lý giáo viên các trường sư phạm.

Về bậc học mầm non, các sở giáo dục và đào tạo cần xây dựng chương trình phát triển đội ngũ giáo viên  theo hướng nâng cao chất lượng dù hiện tại, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn cho bậc học này đã vượt chỉ tiêu đề ra cho năm 2010 nhưng vẫn còn thiếu so với quy định.

Bộ cũng sẽ rà soát lại các chế độ, chính sách với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục như chế độ với giáo viên vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa; công tác luân chuyển giáo viên; xem xét kéo dài thời gian công tác của nhà giáo có trình độ tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư; đổi mới cơ chế quản lý của ngành đối với các cơ sở đào tạo…

Phó thủ tướng yêu cầu, trong 2 năm tới, ngành giáo dục phải chấm dứt tình trạng lạc hậu về phương pháp giảng dạy trong các trường sư phạm như hiện nay. Từ nay đến năm 2010, Bộ sẽ thành lập Ban Chỉ đạo về phát triển hệ thống trường sư phạm do một Thứ trưởng trực tiếp phụ trách, thành lập Hội đồng Hiệu trưởng các trường sư phạm, tạo sức mạnh tổng hợp nhằm xây dựng bộ giáo trình dùng chung tiên tiến, hiện đại của khối sư phạm.

Để có thể tạo ra sự đột phá trong chất lượng giáo viên, các trường sư phạm phải là đầu tàu về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy để kéo cả hệ thống giáo dục quốc dân đi lên./.
 

(1) Trong 3 năm học qua, số lượng học sinh tiểu học đã giảm gần 1 triệu em (4,3% năm).

(2) Đó là do số giảng viên có trình độ tiến sỹ đến tuổi nghỉ hưu nhiều hơn số giảng viên kế cận có trình độ tiến sỹ; mạng lưới trường được mở rộng, quy mô đào tạo tăng nhanh, số lượng giảng viên tăng nhanh, do đó làm giảm tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sỹ.

(3) Nguyên nhân là do số giảng viên sau khi đạt trình độ tiến sỹ có xu hướng dịch chuyển lên giảng dạy ở bậc đại học.