TCCSĐT - Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã tập trung ưu tiên nhiều nguồn lực để hỗ trợ phát triển nhanh vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Thế nhưng, theo các kết quả nghiên cứu gần đây, sự phát triển của vùng này đang trong xu thế kém bền vững. Một trong những nguyên nhân là ĐBSCL chưa thật sự có được mối liên kết vùng để tạo ra một động lực mạnh mẽ, đồng bộ cho sự phát triển bền vững.

Tiềm năng lớn nhưng phát triển chưa bền vững

Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên gần 4 triệu ha (chiếm 12% diện tích tự nhiên cả nước, trong đó 3,21 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp). Hằng năm, toàn vùng sản xuất hơn 50% tổng sản lượng lương thực và đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu trong toàn quốc; thu ngoại tệ khoảng 1,5-2 tỉ USD/năm. Sản xuất thủy sản chiếm hơn 70% sản lượng của cả nước và đóng góp khoảng 80% lượng xuất khẩu, thu ngoại tệ hơn 2,5 tỉ USD/năm. Ngoài ra, ngành chăn nuôi, cây ăn trái, rau màu đã cung cấp một lượng lớn sản phẩm cho thị trường trong và ngoài nước. Toàn vùng đóng góp khoảng 27% vào GDP cả nước, trong đó, GDP khu vực I chiếm khoảng 40%.

Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước tập trung ưu tiên nhiều nguồn lực để hỗ trợ phát triển nhanh vùng ĐBSCL. Cụ thể, Chính phủ đã quyết định thành lập vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL, xác định đây là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông, thủy sản cả nước. Để đạt mục tiêu này, Chính phủ đã và đang triển khai nhiều chương trình, dự án đầu tư lớn nhằm hoàn thiện hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng, tạo động lực phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là sản xuất nông - lâm - thủy sản.

Tuy nhiên, theo các kết quả nghiên cứu gần đây, sự phát triển của vùng ĐBSCL đang trong xu thế kém bền vững. Sản lượng nông nghiệp và xuất khẩu tăng nhanh nhưng thu nhập của đại bộ phận hộ nông dân không tăng tương ứng, thậm chí một bộ phận cư dân nông thôn đang đứng bên rìa sự phát triển, tạo nên những tiềm ẩn về bất ổn xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này nhưng một trong những nguyên nhân được nhiều nhà quản lý, nhà khoa học nêu lên gần đây là: ĐBSCL chưa thật sự có được mối liên kết vùng để tạo ra một động lực mạnh mẽ, đồng bộ cho sự phát triển bền vững.

Những bất cập do thiếu liên kết vùng

Do không có được sự chủ động trong phối hợp, liên kết thực hiện các chương trình dự án, kế hoạch đầu tư phát triển mang quy mô vùng nên thời gian qua, các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển vùng ĐBSCL luôn phụ thuộc vào sự đầu tư từ Trung ương. Đầu tư từ các tỉnh, thành chủ yếu là phục vụ cho sự phát triển của địa phương. Vì thế, không gian kinh tế vùng bị chia cắt, nhiều ngành kinh tế và sản phẩm (nhất là nông sản) của nhiều tỉnh, thành dù có lợi thế so sánh, có khả năng nâng cao giá trị nhưng lại bị cắt khúc trong chuỗi giá trị ngành hàng, giảm giá trị gia tăng và sức cạnh tranh trên thị trường.

Trong sản xuất nông nghiệp, tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu liên kết vùng đã dẫn đến hậu quả là các địa phương không phát huy được lợi thế so sánh, không thể hợp tác đầu tư chiều sâu để cùng sản xuất ra những loại nông sản có giá trị gia tăng cao. Vì thế, nông dân cứ thường xuyên lâm vào cảnh “được mùa mất giá”.

Việc quản lý, sử dụng nguồn nước theo cách thức sản xuất riêng lẻ của từng địa phương đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt và suy kiệt nguồn nước ngầm, gây khó khăn cho đời sống người dân và sản xuất nông nghiệp, nhất là trong những tháng mùa khô.

Do thiếu liên kết vùng nên ĐBSCL khó thực hiện quy hoạch nhằm tập trung vùng nguyên liệu để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư và nối kết từ sản xuất đến tiêu thụ, khó liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp để nâng cao lợi nhuận cho cả hai đối tượng này.

Tình trạng thiếu liên kết vùng và liên kết “4 nhà” (nhà nước - nhà khoa học - nhà nông - nhà doanh nghiệp) cũng dẫn đến nhiều khó khăn trong nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn, khiến nông phẩm làm ra giá thành cao, chất lượng thấp.

Tạo bước đột phá trong liên kết vùng

Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành một số chủ trương, chính sách, quy hoạch làm cơ sở cho sự liên kết vùng như: Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL (ban hành năm 1998 và đang được sửa đổi, bổ sung); quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ như Quyết định số 344/2005/QĐ-TTg về phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch phát triển giao thông vận tải đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Quyết định số 20/2006/QĐ-TTg về phát triển giáo dục - đào tạo và dạy nghề đến năm 2010, Quyết định số 26/2008/QĐ-TTg về một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL…

Để tạo bước đột phá trong phát triển vùng ĐBSCL theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về Nông nghiệp - nông dân - nông thôn (gọi tắt là Nghị quyết 26-NQ/TW), Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với lãnh đạo 13 tỉnh, thành vùng ĐBSCL, Trường Đại học Cần Thơ, Viện Lúa ĐBSCL, Viện Cây ăn quả Miền Nam xây dựng chương trình liên kết vùng và liên kết “4 nhà” với 5 dự án: Dự án phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo vùng ĐBSCL; Dự án phát triển sản xuất và tiêu thụ cây ăn quả vùng ĐBSCL; Dự án phát triển sản xuất và tiêu thụ thủy sản (cá da trơn và tôm) vùng ĐBSCL; Dự án đào tạo nghề nông dân để tham gia thực hiện các dự án trên, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động trong vùng từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; Dự án về cơ chế, tổ chức và chính sách liên kết vùng và liên kết “4 nhà” để thực hiện 4 dự án trên.

Mục tiêu tổng quát của việc thực hiện 5 dự án là, tạo nền tảng khoa học và thực nghiệm vững chắc, góp phần về mặt thực tiễn và lý luận để thực hiện thành công Nghị quyết 26-NQ/TW ở vùng ĐBSCL. Bước đầu tập trung sản xuất, tiêu thụ và tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa, cây ăn quả, nuôi cá da trơn và tôm, thích ứng và hạn chế các tác động bất lợi do biến đổi khí hậu.

Mục tiêu cụ thể được xác định như sau :

- Lai tạo và chọn lọc những giống lúa, cây ăn quả, cá da trơn, tôm có năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống chịu dịch bệnh và thích ứng với điều kiện của từng tiểu vùng sản xuất ở ĐBSCL; đáp ứng được nhu cầu của thị trường và tác động của biến đổi khí hậu.

- Xác định các giải pháp kỹ thuật trong quá trình canh tác và sau thu hoạch để giảm giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi.

- Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành hàng lúa gạo, trái cây, cá da trơn và tôm. Trong đó, việc nối kết nông dân với doanh nghiệp từ sản xuất đến tiêu thụ được đặc biệt chú trọng.

- Nâng cao thu nhập cho nông dân thông qua việc huấn luyện và chuyển giao khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý nông nghiệp; chuyển dịch lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp theo phương châm “ly nông bất ly hương”, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

- Hỗ trợ các tỉnh, thành trong vùng thực hiện tốt “Chương trình Tam nông”.

- Phản hồi cơ chế, tổ chức và chính sách về liên kết vùng và liên kết “4 nhà” đến Trung ương và các địa phương, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết 26-NQ/TW tại vùng ĐBSCL.

Những giải pháp cần quan tâm

Từ những mục tiêu đã đề ra, nhiều nhà quản lý, nhà khoa học đã đề xuất một số vấn đề cần quan tâm trong triển khai các giải pháp thực hiện liên kết vùng ĐBSCL trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó, tập trung vào 3 sản phẩm thế mạnh: lúa gạo, trái cây và thủy sản (cá da trơn, tôm). Cụ thể:

Đối với phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo:

Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nghiên cứu một số giống lúa mới thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bảo đảm ổn định chất lượng và giá trị của sản phẩm gạo từ những giống lúa này trên thị trường; hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sau thu hoạch cho nông dân để nâng cao lợi tức; hỗ trợ (lãi suất tín dụng, giải phóng mặt bằng…) để thực hiện các dự án xây mới, mở rộng, nâng cấp các kho dự trữ gạo; cải thiện hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất lúa trong bối cảnh biến đổi khí hậu...

Dựa vào quy hoạch sử dụng đất lúa đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để quy hoạch và đầu tư quy hoạch theo tiểu vùng sản xuất, lấy đó làm nền tảng để liên kết vùng về giống, quy trình sản xuất, công nghệ sau thu hoạch, tổ chức nối kết từ khâu sản xuất của nông dân tới thị trường.

Đối với phát triển sản xuất và tiêu thụ cây ăn quả:

Sớm quy hoạch, xây dựng vùng chuyên canh cây ăn quả cấp vùng; xây dựng mạng lưới sản xuất, quản lý, cung ứng các giống cây ăn quả chất lượng cao để bảo đảm chất lượng, hiệu quả cho nông dân cũng như cho các doanh nghiệp khi tổ chức thu mua, tiêu thụ; triển khai các dự án chương trình sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn Viet GAP, Global GAP, chống thất thoát sau thu hoạch; hỗ trợ ứng dụng công nghệ đóng gói, chế biến tiên tiến để nâng cao sức cạnh tranh của trái cây ĐBSCL trên thị trường.

Dựa vào quy hoạch của 11 tỉnh, thành có lợi thế so sánh về sản xuất cây ăn quả là Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu và thành phố Cần Thơ để chọn ra mỗi tỉnh trồng 1-2 loại cây chủ lực và 2-3 loại cây trồng phụ. Địa phương nào có lợi thế so sánh về cây trồng chủ lực sẽ tổ chức liên kết với các địa phương khác để đầu tư sản xuất theo tiêu chuẩn Viet GAP, Global GAP, tạo cơ sở để hình thành các vùng nguyên liệu lớn và xây dựng thương hiệu cây ăn trái ĐBSCL.

Đối với phát triển sản xuất và tiêu thụ thủy sản:

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các cụm liên kết sản xuất và tiêu thụ thủy sản, cần bảo đảm việc tổ chức cung ứng (cả số lượng và chất lượng) các giống tôm, cá da trơn trên cơ sở kiểm soát, liên kết chặt chẽ giữa cơ sở cung ứng giống với cơ sở nuôi nhằm tránh tình trạng thiệt hại do con giống kém chất lượng. Song song đó, cần củng cố hệ thống khuyến ngư cơ sở để giúp nông dân kiểm soát, ngăn ngừa dịch bệnh, bảo đảm tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường; chú trọng đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi riêng cho vùng chuyên nuôi thủy sản…

Đối với cá da trơn, cần dựa vào đề án sản xuất và tiêu thụ cá da trơn với sự tham gia của 9 tỉnh, thành ĐBSCL để hợp tác nghiên cứu và phát triển thông tin thị trường vùng, quy trình nuôi. Qua đó, kêu gọi sự tham gia liên kết “4 nhà” để nâng cao hiệu quả sản xuất, tiêu thụ cá da trơn.

Đối với tôm, dựa vào quy hoạch sản xuất của các tỉnh ven biển ĐBSCL. Cần chú trọng nghiên cứu chuỗi cung ứng, cơ chế quản lý chuỗi hiệu quả và nghiên cứu, nhân rộng những kỹ thuật, mô hình nuôi tôm bền vững.

Trong những năm tới, nông nghiệp, nông dân và nông thôn ĐBSCL sẽ phải đối mặt với thách thức lớn do những áp lực từ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hơn và tác động của biến đổi khí hậu. Vì thế, triển khai nhanh, đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp liên kết vùng trong sản xuất nông nghiệp, qua đó, nâng cao đời sống nông dân và xây dựng nông thôn mới đang được đặt ra không chỉ như một yêu cầu bức bách và mà còn là tất yếu khách quan./.