Tiến tới đồng quản lý tài nguyên, môi trường biển đảo phục vụ đời sống, dân sinh
TCCSĐT - Sự nghiệp kiểm soát dân số, bảo vệ nguồn tài nguyên, môi trường vùng biển đảo chỉ có thể thành công khi có sự chuyển đổi về nhận thức và sự tham gia tự nguyện, tích cực của ngư dân, của cộng đồng dân cư vùng này mà không có lực lượng nào thay thế được họ. Bởi chính họ hiểu hơn ai hết “miếng cơm manh áo của mình”, cũng như khát vọng thoát nghèo vươn lên làm giàu từ chính đối tượng họ khai thác, sử dụng và cột chặt cuộc đời mình vào đó.
Đồng quản lý tài nguyên và môi trường biển
Đồng quản lý tài nguyên, môi trường biển, hải đảo được hiểu như là sự chia sẻ trách nhiệm và quyền hạn một cách có hệ thống giữa các cấp chính quyền quản lý và những người dân địa phương sử dụng các biện pháp cùng nhau quản lý, sử dụng tài nguyên, môi trường biển, hải đảo nhằm bảo đảm hiệu quả và mang tính bền vững. Các cấp chính quyền quản lý tham khảo ý kiến cộng đồng người dân ven biển đảo để xây dựng, thực hiện các luật lệ, quy định, khuyến cáo phù hợp với thực tiễn trước mắt và bảo đảm lợi ích sử dụng tài nguyên biển, hải đảo lâu dài cho cộng đồng. Mức độ trách nhiệm hoặc quyền hạn của nhà nước và cộng đồng người dân ven biển sẽ khác nhau và tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể của từng khu vực, vùng nước.
Đồng quản lý tài nguyên, môi trường biển, hải đảo có thể dùng làm một cơ chế để vừa quản lý tài nguyên, môi trường biển, hải đảo vừa phát triển kinh tế biển cho cộng đồng thông qua việc khuyến khích người dân và cộng đồng địa phương ven biển tham gia tích cực vào giải quyết các khó khăn và đưa ra những kiến nghị, điều chỉnh hợp lý và kịp thời. Không nên coi đồng quản lý là một chiến lược duy nhất để giải quyết mọi vấn đề khó khăn trong quản lý tài nguyên, môi trường biển, hải đảo, mà nên coi đó là một nhóm các chiến lược xen kẽ, phù hợp cho các khu vực và tình hình nhất định.
Cơ sở pháp lý để tiến đến đồng quản lý tài nguyên và môi trường biển Việt Nam
Từ xưa cư dân ven biển và hải đảo nước ta đã tham gia vào bảo vệ biển và hải đảo, nhưng cách làm theo lối tự quản. Đến nay, đã khẳng định vai trò không thể thiếu của cộng đồng tham gia bảo vệ biển và hải đảo. Có lúc, có nơi sự tham gia đó tạo ra phong trào bảo vệ sinh thái và môi trường biển rất có hiệu quả, mạng lại chất lượng sống cao hơn cho cư dân.
Các vùng ven biển và hải đảo, cộng đồng ngư dân mong nuốn các cấp chính quyền trao cho họ quyền được quan sát và kiểm tra các hệ thống ra quyết định bảo vệ môi trường biển và hải đảo trên cơ sở những thể thức hợp pháp luật. Nước ta đã có Luật Khoáng sản (năm 1996) sửa đổi năm 2005 và năm 2010; Luật Dầu khí năm 1993 và sửa đổi năm 2008 đã quy định cho các bộ, ngành, các tỉnh, địa phương lập kế hoạch điều tra thăm dò và cấp phép về khoáng sản và dầu khí. Nghị định 25/2009/NĐ-CP do Chính phủ ban hành có hiệu lực từ 1/5/2009 với 5 chương và 30 điều quy định đã làm rõ các điều kiện bảo đảm cho quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển, hải đảo.
Sự tham gia của cộng đồng
“Sự tham gia của cộng đồng” là quá trình trong đó các nhóm dân cư của cộng đồng tác động vào quá trình thực hiện, quản lý, sử dụng hoặc duy trì một môi trường sống quanh mình chất lượng cao hơn. Các hoạt động cá nhân không có tổ chức sẽ không được coi là sự tham gia của cộng đồng.
Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào việc bảo vệ môi trường biển và hải đảo là một quá trình mà Nhà nước và cộng đồng cùng nhận một số trách nhiệm cụ thể và tiến hành các hoạt động để bảo vệ sự sống còn và duy trì đời sống bền vững cho tất cả cộng đồng. Đồng thời, bảo đảm cho những người chịu ảnh hưởng được tham gia vào việc quyết định bảo vệ và nâng cao năng lực quản lý cho sự trong sạch của môi trường biển.
Sự tham gia của cộng đồng là tìm và huy động các nguồn lực của cộng đồng, qua đó để tăng lợi ích cho cộng đồng ngư dân, giảm các chi phí, tăng hiệu quả kinh tế biển. Qua thống kê và đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến sự tham gia cộng đồng dân cư địa phương vào việc bảo vệ môi trường biển và hải đảo cho thấy, bên cạnh việc khuyến khích các tầng lớp nhân dân, hệ thống chính trị cơ sở, việc cộng đồng ngư dân địa phương có quyền tham gia ra quyết định là rất quan trọng, vì kết quả của các quyết định trong cộng đồng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Sự tham gia của cộng đồng địa phương làm tăng sức mạnh người dân, giải quyết các vấn đề khó khăn trong môi trường cộng đồng.
Sự tham gia của cộng đồng địa phương bảo đảm thu được những kết quả của dự án tốt hơn, vì chính người dân biết rõ nhất là họ cần gì, những khả năng của họ và có thể dùng các nguồn lực riêng cho các hoạt động của cộng đồng.
Sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường biển và hải đảo là chức năng cao nhất, thể hiện cam kết của người dân và tăng tính hiệu quả như: Sự tham gia của nhiều người được hưởng lợi giúp bảo đảm cho địa phương bảo vệ môi trường biển và hải đảo đạt được các mục tiêu mong muốn. Tăng tính hiệu quả của địa phương vào việc bảo vệ môi trường biển và hải đảo thông qua trao đổi ý kiến với những người được hưởng lợi trong suốt quá trình thực hiện cũng như sự tham gia của họ trong công tác quản lý và điều hành dự án. Bảo đảm cho những người tham gia chủ động dành hết tâm trí vào việc thực hiện bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Bên cạnh đó, những quy định pháp luật liên quan đến sự tham gia của cộng đồng địa phương không chấp nhận đặt mình vào một không gian tri thức hoá nghiêm ngặt, mà nguyên tắc cơ bản chỉ lấy không gian mà ngư dân ven biển và hải đảo đang sinh sống, làm tiền đề xây dựng những quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Những giá trị nằm trong quy phạm pháp luật có tính cộng đồng địa phương, đặc biệt coi trọng những thoả mãn việc sử dụng không gian có thể đem lại cho mỗi người dân địa phương sống ven biển và hải đảo nhận thức về nhu cầu thực tế đời sống riêng, làm tăng thêm tổng số những niềm vui của họ.
Nếu phương pháp tăng các quy phạm pháp luật trong các quy định bảo vệ môi trường biển và hải đảo tạo ra các cơ chế biến đổi môi trường sống của biển xanh và sạch hơn chỉ có thể nhận ra và hiểu được sau những thời gian dài, thì lồng ghép các quy định pháp luật có sự tham gia của cộng đồng, nhấn mạnh sự việc sẽ thay đổi căn bản ngay trong cuộc sống thường ngày của người dân.
Các quy phạm pháp luật có sự tham gia của cộng đồng ra đời đều nhằm tới thoả mãn các nhu cầu bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Song, việc xác định chính xác những nhu cầu ấy lại đặt ra nhiều vấn đề mới trong xây dựng pháp luật. Sự tham gia của cộng đồng xem xét những thực tiễn ước định các nhu cầu cần phải đáp ứng, không căn cứ vào riêng một ý kiến của một ai (một nhà lãnh đạo, một chuyên gia...), hoặc một hệ thống bộ máy nhà nước thực hiện mà phụ thuộc vào động thái của đời sống địa phương, vào các sáng kiến cá nhân hoặc nhóm dân cư.
Ảnh hưởng lớn tác động đến sự thành công của cộng đồng trong bảo vệ môi trường biển và hải đảo chính là ở trong mọi yếu tố nội lực của cộng đồng. Trước tiên phải kể đến kỹ năng tổ chức trong các cộng đồng dân cư sống ven biển và hải đảo, kỹ năng chuyên môn hay lãnh đạo cần được phát triển trong cộng đồng theo cách thức thích hợp với nhiệm vụ đang được thực hiện ở cấp cộng đồng.
Sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường biển và hải đảo nếu không được chú trọng trong các quy phạm pháp luật với những phương pháp rất cụ thể sẽ dễ dẫn đến một sự nhất trí giả tạo do thiếu hiểu biết hay phải đối đầu với những vấn đề quá khó. Chính điều đó cho thấy rằng, để bảo đảm cho việc bảo vệ môi trường biển và hải đảo đạt hiệu quả cao nhất cần phải phổ biến, vận động mọi tầng lớp dân chúng trong vùng hiểu rõ những ảnh hưởng tích cực của họ trong việc xây dựng và thực thi các quy phạm pháp luật liên quan đến cuộc sống của họ. Ý thức cộng đồng của người dân là một trong những yếu tố rất quan trọng để đi tới sự phát triển bền vững của môi trường biển và hải đảo. Do vậy, đòi hỏi phải tạo ra được một mối quan hệ tốt đẹp nhất giữa các nhóm dân cư đạt đến tính cộng đồng cao, tính thống nhất cao.
Việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng ven biển làm kinh tế biển là rất cần thiết. Muốn quản lý tốt cộng đồng, trước hết nhà nước cần tạo cơ hội cho họ tham gia vào các hoạt động quản lý và khai thác biển bền vững, hoặc phát triển kinh tế biển cộng đồng nhằm chuyển đổi nghề nghiệp, cải thiện sinh kế và góp phần xoá đói giảm nghèo cho họ.
Quản lý nhà nước về hoạt động kinh tế xã hội của ngư dân phải kết hợp giữa quản lý tổng hợp vùng ven bờ và xa bờ trên cơ sở khoa học, trong đó cần đặc biệt quan tâm quản lý khai thác gắn với bảo vệ, bảo tồn nguồn lợi biển đảo. Đây là hai mặt của một vấn đề bảo đảm sự sống còn của cộng đồng ngư dân. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy, bên cạnh quản lý trên cơ sở hệ sinh thái, quản lý nhà nước, cần thiết phải được đẩy mạnh dựa trên cơ sở cộng đồng và đồng quản lý. Các hình thức quản lý này cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau. Xây dựng cơ chế để kích thích sự phát triển ý thức tự giác, năng lực tự quản lý của ngư dân; giao kết tự quản lý nguồn lợi của từng cộng đồng trên cơ sở kế thừa các giá trị từ các hương ước quản lý truyền thống được thể chế hoá đồng bộ, mang tính hệ thống hoá trong phạm vi cả nước.
Thực tế cho thấy, ngư dân vừa là người lao động sáng tạo, vừa áp dụng khoa học kỹ thuật biển. Các nhà quản lý, các nhà khoa học phải nắm bắt thường xuyên nhu cầu không ngừng đổi mới của ngư dân trong việc cải thiện và nâng cao đời sống của họ. Hàng loạt công trình nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng công nghệ hữu ích ra đời từ thực tế cuộc sống của ngư dân đã góp phần cung cấp các luận chứng khoa học cho việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước, góp phần làm thay đổi bộ mặt các làng cá ven biển đảo và cải thiện sinh kế cho cộng đồng ngư dân.
Một nghịch lý đang tồn tại trong cộng đồng ngư dân là nhận thức về sự cần thiết phải bảo vệ nguồn lợi tài nguyên, môi trường biển ngày càng tăng lên thì khai thác lại càng nhiều và manh mún. Điều đó gợi mở cho các vấn đề về cơ chế, chính sách trong việc thay đổi hành vi bảo vệ nguồn lợi biển đảo của ngư dân và vấn đề quy hoạch tổng thể biển, đảo.
Giải pháp xây dựng mô hình đồng quản lý tài nguyên biển đảo
Chúng ta phải thực hiện công tác tăng cường bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, trên cơ sở đánh giá thực trạng thực thi các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng này. Trong thời gian tới, chúng ta phải thực hiện có hiệu quả những giải pháp sau:
Thứ nhất, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường biển và hải đảo cho toàn dân sinh sống ven biển và hải đảo, xây dựng thói quen, nếp sống mới, đồng thời phát động và thực hiện tốt các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Thứ hai, hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo, các chính sách về phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo vệ môi trường biển và hải đảo, sớm xây dựng và ban hành Luật khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển.
Thứ ba, chủ động phòng chống ô nhiễm và sự cố môi trường biển và hải đảo, khắc phục tình trạng suy thoái môi trường biển. Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên biển, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên biển. Chú trọng công tác xây dựng và thực thi các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo, vùng ven biển, vùng dân cư tập trung.
Thứ tư, tăng cường và đa dạng hoá đầu tư cho hoạt động xây dựng và thực thi các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Chú trọng công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường biển và hải đảo từ trung ương đến địa phương. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học liên quan đến sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo, hình thành nhóm nòng cốt, nhóm cộng đồng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Thứ năm, có kế hoạch tổng thể tiến đến xây dựng văn bản pháp lý cao cho việc triển khai và thực hiện đồng quản lý tài nguyên, môi trường biển đảo, tổ chức triển khai điểm, nhân rộng và thực hiện có hiệu quả, bảo đảm phù hợp với thực tế và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Thứ sáu, tuyên truyền sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân, các ngành, các cấp về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, phân bổ dân cư hợp lý. Tăng cường truyền thông về ý nghĩa, vai trò của việc xây dựng và thực thi văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đảo./.
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại góp phần thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu  (23/12/2010)
Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua 45 nghị quyết  (23/12/2010)
Các Công ước Quốc tế về Quyền con người và Cơ chế thực hiện  (23/12/2010)
Bế mạc Liên hoan Thanh niên, Sinh viên thế giới lần thứ 17  (23/12/2010)
Phải luôn gắn Cuộc vận động với nhiệm vụ chuyên môn  (23/12/2010)
- Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm