Bảo vệ môi trường nâng cao chất lượng sống cho nhân dân vùng biển đảo và ven biển
TCCSĐT - Vùng biển đảo và ven biển nước ta dài rộng và tươi đẹp, lại chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng với trữ lượng, quy mô lớn, cho phép phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế biển quan trọng, nuôi sống khoảng 29,2 triệu người, chiếm 34,6% dân số cả nước. Tuy nhiên, vùng biển đảo và ven biển nước ta cũng đang đứng trước những thảm họa về môi trường và cạn kiệt tài nguyên. Cần có những giải pháp cấp thiết, cơ bản, lâu dài để bảo vệ tài nguyên, môi trường, phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao chất lượng sống cho nhân dân vùng này.
Lợi ích kinh tế to lớn của vùng biển đảo và ven biển
Nước ta có bờ biển dài hơn 3 260km, với đặc điểm có nhiều vùng đất ngập nước và nhiều kiểu hệ sinh thái biển, kể cả khoảng 100 hệ thống cửa sông lớn nhỏ, cùng với rừng ngập mặn và bãi bùn (khoảng 290.000 ha), những đầm lầy ngập nước theo mùa, những đụn cát ven biển, những đầm phá nước mặn và nước lợ (khoảng 100.000 ha) và nhiều rạn san hô gần bờ, thảm cỏ biển với khoảng 10.000 đảo lớn nhỏ. Đây cũng là nơi dân cư tập trung đông, nguồn nhân lực dồi dào, với số dân khoảng 29,2 triệu người, chiếm 34,6% dân số cả nước và số người trong độ tuổi lao động chiếm 35,5% lao động cả nước.
Biển đảo và ven biển đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp, như nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, đồng thời đem lại lợi ích gián tiếp cho con người. Các vùng đầm lầy có rừng ngập mặn và các cửa sông có ý nghĩa sinh thái đặc biệt, là chỗ đẻ trứng, nuôi ấu trùng, nơi kiếm ăn cho nhiều loài có giá trị kinh tế như cá, ốc, tôm, cua và nhiều loài hai mảnh vỏ... và là nơi cung cấp thực phẩm quan trọng cho người nghèo. Các đầm phá ven bờ là hệ sinh thái có sức sinh sản cao do ở đây có hàm lượng chất dinh dưỡng lớn hơn vùng biển, ngay cả trong mùa khô. Ở đây có thể khai thác nhiều loài động vật, thực vật, nhất là cá, tôm, cua, ốc, hàu và rong câu... Những rạn san hô là nơi quy tụ nhiều chất dinh dưỡng, nhiều loài sinh vật biển và là nơi ẩn nấp và sinh sản của nhiều loài hải sản quan trọng. Các đụn cát, rừng ngập mặn và các rạn san hô cũng tạo nên vùng đệm, ngăn cản tác hại của lũ lụt, xói mòn đất, sóng bão.
Tài nguyên vùng biển đảo và ven biển phong phú, đa dạng là nguồn thực phẩm và là nguồn thu nhập quan trọng cho phần lớn nhân dân vùng này. Trữ lượng các loài cá biển khoảng 3 triệu tấn; trữ lượng tôm he và tôm vỗ khoảng 57.330 tấn với khả năng khai thác 20.000 tấn. Các loài cua, ghẹ, ngao đá, nghêu, sò huyết có khả năng khai thác lớn. Ngoài ra còn có các loài đặc sản có giá trị như tu hài, vẹm xanh, điệp, hàu, bào ngư, ốc hương, tổ yến cũng là nguồn lợi lớn từ biển đảo và ven biển nước ta. Hằng năm lượng cá đánh bắt được lên tới hằng triệu tấn, trong đó phần quan trọng dành cho xuất khẩu. Khoảng 80-90% sản lượng cá biển đánh bắt được là từ vùng nước nông ven bờ. Nghề biển đã cung cấp khoảng 30% lượng đạm động vật cho nhân dân vùng biển đảo và ven biển.
Gần đây, kinh tế biển nước ta đã có bước phát triển, nhờ chính sách di dân và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo, như mở rộng hệ thống giao thông, mạng lưới điện, cung cấp nước ngọt, xây dựng thêm trường học, bệnh xá... Tuy vậy, kết cấu hạ tầng các vùng biển đảo và ven biển vẫn còn yếu kém và lạc hậu. Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển nước ta đạt khoảng 47-48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” đạt khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải, du lịch, các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng tàu, chế biến dầu khí, chế biến hái sản, thông tin liên lạc bước đầu phát triển, nhưng quy mô còn nhỏ bé. Hệ thống cảng biển còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Tuy nhiên, chúng ta đang nỗ lực khai thác, bảo vệ và phát triển lợi ích kinh tế từ vùng biển đảo và ven biển, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng sống của nhân dân vùng này và nhân dân cả nước.
Cấp báo ô nhiễm môi trường và cạn kiệt nguồn tài nguyên, sinh thái
Những hệ sinh thái biển đảo và ven biển nước ta đang nhanh chóng bị xuống cấp hoặc bị biến đổi. Mặc dù trong chiến tranh hàng loạt những khu rừng ngập mặn ở phía Nam đã bị tàn phá, đã được nhân dân vùng biển đảo trồng lại, nhưng áp lực kinh tế hiện thời đã biến rừng ngập mặn thành nơi cày cấy hoặc nuôi trồng thuỷ hải sản theo kiểu không bền vững. Nước ta lại là một trong năm nước chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, trước hết là vùng biển đảo và ven biển. Các hệ sinh thái ven biển, các giá trị dịch vụ, người dân ven biển và trên các đảo là những đối tượng dễ bị tổn thương và chịu tác động mạnh mẽ nhất.
Nghề đánh bắt cá ven bờ đang khai thác quá mức, các rạn san hô bị xuống cấp do những cách đánh bắt có tính hủy diệt, và bị cạy lên để nung vôi. Phần lớn dân cư sinh sống ở vùng gần ven biển và việc sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp đều tập trung ở vùng này như: châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long, nên tình trạng ô nhiễm công nghiệp và đô thị cùng nhiều hình thức phát triển khác trong vùng lưu vực sông là mối đe dọa nghiêm trọng đối với tài nguyên vùng biển đảo và ven biển.
Trong những năm tới, dự kiến mức tăng trưởng trong hoạt động kinh tế, nhất là việc đẩy mạnh nông nghiệp, phát triển tài nguyên nước và công nghiệp, xây dựng bến cảng, khai thác và vận chuyển dầu sẽ tăng thêm sức ép lên vùng biển đảo, ven biển và tài nguyên biển. Ngành du lịch sẽ nhanh chóng được mở rộng ở vùng biển đảo cũng sẽ gây thêm sức ép lên vùng này, nhất là các bờ biển quý giá như vịnh Hạ Long, Vũng Tàu và dải bờ biển miền Trung.
Các hoạt động trên biển cũng tiềm tàng những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường vùng biển đảo. Đầu tiên là việc phá rừng ngập mặn một cách bừa bãi để nuôi trồng thuỷ sản, phá vỡ hệ cân bằng sinh thái, làm mất đi nhiều loài hải sản quý hiếm; việc đánh bắt cá bằng lưới quét mắt nhỏ, bằng chất nổ, thuốc độc... đã tiêu diệt hàng chục loài sinh vật biển, theo đánh giá của các nhà khoa học, thì phải mất hàng chục năm mới khôi phục lại được. Việc quai đê lấn biển ở một số vùng cửa sông, ven bờ cũng làm thay đổi dòng chảy và có nguy cơ xói lở bờ ở các vùng khác. Tình trạng ngập lụt ở các vùng ven biển do chặt phá rừng bừa bãi để khai thác gỗ, đốt rừng đầu nguồn... đã làm đảo lộn các hệ sinh thái, dẫn đến việc hủy diệt các dải san hô, nơi sinh sống của nhiều loài thủy sản.
Hiện nay, việc khai thác, thăm dò dầu khí ở nước ta đang trên đà phát triển. Bên cạnh sự phát triển đó là những rủi ro đối với kinh tế và đời sống người dân ven biển, trong đó nguy cơ dầu tràn là mối đe dọa đặc biệt nghiêm trọng. Dầu tràn từ biển trôi vào bờ, trước mắt thiệt hại cho việc đánh bắt cá, nuôi trồng hải sản, làm muối, du lịch... sau đó ảnh hưởng lâu dài, nghiêm trọng đến sự phát triển sinh vật ven bờ và sức khỏe con người.
Ô nhiễm dầu có thể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, như giao thông vận tải và vận chuyển dầu, khai thác thăm dò dầu khí ngoài khơi, xử lý và phân phối kinh doanh dầu, đánh bắt cá, du lịch hoặc các hoạt động có liên quan đến sử dụng dầu trong các lưu vực. Vấn đề nguy hiểm đặt ra là dầu đã loang vào bờ biển nước ta. Quan sát bằng mắt thường, chúng ta đã thấy được các mảng, vệt, váng dầu, các tảng cục dầu ngậm nước trôi nổi ở vùng nước sát bờ. Có thể đó là các tảng, cục dầu ngậm nước đã bị phong hoá ở các mức độ khác nhau nằm trên bờ bãi. Đối với ô nhiễm dầu không thấy được bằng mắt thường, thường là dạng hoà tan trong nước hoặc lắng đọng cùng trầm tích, hàm lượng đã vượt quá giới hạn cho phép trong tiêu chuẩn nước biển ven bờ TCVN 5943-1995. Thời gian qua, nhiều mảng dầu, vón dầu không rõ chủng loại và xuất xứ đã được phát hiện ở nhiều nơi dọc bờ biển nước ta như Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hoá, Trà Vinh, Bến Tre... Khối lượng dầu tràn thường khá lớn, vết dầu rộng tràn vào bờ gấp 10-20 lần mức cho phép.
Đối với các cảng biển, hàm lượng dầu cao hơn tiêu chuẩn cho phép là do sự rò rỉ thường xuyên và không tránh được của tàu thuyền cùng các dịch vụ nhập, xuất, tiếp dầu. Việc thải các chất lỏng có chứa dầu, dầu cặn, sự khuyếch tán của lớp bùn cát đáy chứa dầu làm ô nhiễm. Đối với các vùng cửa sông, phần lớn là do các hoạt động trên đất liền hoặc từ các cảng sâu hơn theo dòng nước sông đưa ra làm cho các cửa sông đều có hàm lượng dầu trong nước cao hơn tiêu chuẩn cho phép, như ở các sông Cấm, sông Hàn, sông Hồng, sông Thái Bình, sông Thu Bồn, sông Đồng Nai và Định An... Ở các vùng biển ven bờ, dầu thường theo sông thải ra rồi theo hệ thống dòng chảy sát bờ đưa đi xa hơn. Ví dụ, như vùng biển rộng từ Đồ Sơn đến gần cửa Ba Lạt, có hàm lượng dầu rất cao, do dòng nước từ cảng cửa sông Hải Phòng cùng các sông Hồng và sông Thái Bình đổ ra. Sự ô nhiễm dầu ở các vùng gần các tuyến giao thông biển nhộn nhịp, hoặc gần nơi thăm dò khai thác dầu khí cũng rất nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường biển sẽ làm cạn kiệt dần nguồn tài nguyên, sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người dân vùng biển đảo và ven biển.
Những giải pháp cấp thiết, cơ bản, lâu dài
Sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước với tốc độ cao, tất yếu sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, tài nguyên vùng biển đảo và ven biển. Tuy nhiên, chúng ta cần phải có những biện pháp cấp bách, cơ bản, lâu dài nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự thiệt hại do ô nhiễm gây ra đối với môi trường và tài nguyên vùng biển đảo và ven biển.
Nước ta đã có Luật Bảo vệ môi trường, nhưng việc đưa luật vào đời sống xã hội, để trở thành ý thức chấp hành trong mỗi người dân vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay, hiểu biết của người dân về những hoạt động có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường như: đốt, phá rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn ven biển, xả rác bừa bãi ra sông hồ, bờ biển,... còn rất hạn chế. Cần phải có những biện pháp tuyên truyền sâu rộng, có hướng dẫn đầy đủ đến người dân để họ hiểu được sự cần thiết phải bảo vệ môi trường nói chung và môi trường biển, đảo nói riêng. Cần kiểm soát chặt chẽ các bến cảng biển và khuyến khích phát triển đánh bắt hải sản xa bờ. Đó chính là yếu tố tiên quyết quyết định sự phát triển nền kinh tế biển, góp phần làm nên sự phồn thịnh của một quốc gia.
Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển đảo và ven biển cũng cần có sự hợp tác của các ngành, các cấp và sự đầu tư đúng mức của Nhà nước cho việc phát triển công nghệ tiên tiến như: tin học, vật lý học, viễn thám để kiểm soát được mức độ ô nhiễm môi trường của các vùng này và có những giải pháp kịp thời điều chỉnh, ứng phó hiệu quả với những tác động nghiêm trọng của biển đổi khí hậu. Có chính sách phát triển các chuyên ngành môi trường biển đảo và ven biển ở các trường đại học, các viện nghiên cứu,... để xây dựng đội ngũ lao động chất lượng cao với đầy đủ các thiết bị cần thiết trong việc giải quyết vấn đề môi trường, dân sinh vùng biển đảo và ven biển.
Hợp tác quốc tế trong quản lý và bảo vệ môi trường biển đảo và ven biển có ý nghĩa rất quan trọng. Xuất phát từ việc môi trường biển đảo là vấn đề chung của các quốc gia, chúng ta cần phải phối hợp chặt chẽ với các nước có chung vùng biển và các nước có công nghệ cao áp dụng hữu hiệu vào việc bảo vệ môi trường biển đảo như: Đức, Nhật Bản, Mỹ..., Trong thời gian qua, sự hợp tác này đã mang lại những thành công trong việc chuyển giao công nghệ, đặc biệt là chuyển giao phương pháp luận về quản lý ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho mục đích phát triển bền vững vùng biển đảo và ven biển. Trong khuôn khổ các Dự án, chúng ta đã xây dựng được kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại và các phần mềm xử lý số liệu bằng công nghệ GIS như Arc INFO, Arc VIEW, hướng tới việc quản lý và xử lý các số liệu, tổng hợp, đánh giá tình hình ô nhiễm dải ven biển để kịp thời thông báo và khuyến cáo về những tác hại ảnh hưởng đến môi trường.
Vấn đề quan trọng đặt ra là, phải phát triển một nền kinh tế biển hiệu quả và bền vững. Muốn vậy, phải xây dựng được một nền khoa học công nghệ biển hiện đại, có một phương thức quản lý biển tổng hợp, bảo đảm được an ninh sinh thái và an sinh xã hội vùng biển đảo và ven biển. Có kế hoạch phát triển kinh tế biển đảo đi liền với bảo tồn thiên nhiên, du lịch sinh thái. Xây dựng, phát triển thương hiệu biển Việt Nam trong các lĩnh vực và vùng địa lý, trong đó có cảng nước sâu và khu kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh.
Đẩy mạnh và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiên tiến, phát huy những kinh nghiệm tốt, giải pháp hay trong công tác bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng sống cho người dân vùng biển đảo và ven biển. Có thể kể đến bài học kinh nghiệm hay của Tiền Hải. Huyện Tiền Hải nằm ven biển phía Đông-Nam của tỉnh Thái Bình, có dân số 209 ngàn người. Huyện có 56 ha đất nổi trong đê và 45.200 đất ngập nước ven biển, ven sông (tính theo quy định của Công ước Quốc tế Ramsar đến mức nước 6 mét khi triều thấp). Huyện tiếp giáp với biển theo chiều Đông - Nam dài 23km với ba cửa sông lớn: sông Hồng, sông Lân và Trà Lý. Phía ngoài cách đê biển 3-7km là hệ thống các cồn cát sa bồi. Ở giữa đê biển và các cồn cát là các bãi ngập triều màu mỡ phù sa. Diện tích từ cao độ +0,2m so với mặt nước biển trung bình trở lên có thể trồng được rừng ngập mặn và khoanh nuôi thuỷ sản có trên 10 ngàn ha (tương đương với diện tích canh tác của huyện). Trước đây, huyện đã có kinh nghiệm lấn biển bằng cách trồng sú vẹt, cói, đưa nước ngọt ra cải tạo đất để cấy lúa, chạy cói quai đê để thành lập làng kinh tế mới. Diện tích rừng phòng hộ của huyện có đến 2.500 ha, bao gồm 250 ha rừng phi lao chắn gió cát mù mặn, 2.250 ha rừng sú vẹt, vẫn ngập mặn để giữ đất, lắng đọng phù sa, là nước quần cư sinh sôi phát triển của các loại thuỷ hải sản. Hệ thống rừng phòng hộ đã tham gia tích cực vào việc bảo vệ đê biển, chống xói lở qua các cơn bão lớn hằng năm.
Những năm trước, chính quyền địa phương đã cho đấu thầu nhận đất để quai đắp các ao tôm một cách tràn lan, gần 2.000 ha ao tôm đã làm suy thoái 70% rừng ngập mặn. Nạn chặt phá rừng phi lao lấy củi, làm xà đỡ, cột chống cống đáy làm hủy diệt gần hết rừng sú vẹt trong các ao tôm bị tù đọng nước, gây thối rữa ô nhiễm nặng nề. Sản lượng hải sản khai thác giảm dần theo năm tháng. Năm đầu đạt 200-300 kg/ha với con nhỏ không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Mặt khác, do các cánh rừng phòng hộ bị suy thoái, đê biển trước bão bị xói lở, Nhà nước phải đầu tư 3-4 tỷ đồng để kè đá, nước mặn tràn vào nội đồng làm các cây con nuôi trồng bị giảm sút nghiêm trọng. Đứng trước nguy cơ suy thoái môi trường ven biển dẫn đến hoang hoá, Tiền Hải đã nhanh chóng mở các đợt tuyên truyền vận động sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, nhất là các cư dân ven biển về tầm quan trọng của môi trường tự nhiên đối với phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng sống. Nhờ đẩy mạnh giáo dục truyền thông, nâng cao ý thức của người dân trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường, phát triển hệ sinh thái ven biển, khắc phục sự cố tràn dầu, nghiêm cấm khai thác bừa bãi các vùng ven sông, biển, Tiền Hải đã xây dựng được vùng biển sinh thái giàu có, trong lành và sạch đẹp.
Trong những năm tới, Tiền Hải đang có chủ trương lấy phát triển kinh tế biển làm hướng mũi nhọn. Theo hướng đó, Tiền Hải đã xây dựng chiến lược toàn diện, có sự điều tiết hợp lý và đề ra các sách lược đúng đắn trong nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên biển và hạn chế đến mức thấp nhất sự ô nhiễm dải ven biển, bảo đảm sự phát triển kinh tế trong đa dạng sinh thái biển, đảo./.
Kỷ niệm 50 năm Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam  (20/12/2010)
Đoàn cấp cao Thanh tra Chính phủ Việt Nam thăm Lào  (20/12/2010)
Trận chung kết  (20/12/2010)
Chung tay mưu chuyện lớn  (20/12/2010)
Cốt Đi-voa: chính trị bế tắc hậu bầu cử  (20/12/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm