Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Triển vọng và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Nguyễn Anh Tuấn PGS, TS. Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao
17:32, ngày 31-07-2015

TCCS - Bước sang thế kỷ XXI, các nước thành viên ASEAN thống nhất đẩy mạnh liên kết nội khối sâu hơn và toàn diện hơn bằng việc thúc đẩy hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN - một trong ba trụ cột cấu thành của Cộng đồng ASEAN. Bên cạnh những lợi thế, thành tựu đạt được trong hợp tác và liên kết nội khối cũng như trong quan hệ hợp tác với các nước ngoài khu vực, cả khu vực và từng nước thành viên ASEAN đang nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, hướng đến việc hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng vào cuối năm 2015.

Mục tiêu của Cộng đồng Kinh tế ASEAN

Cuối năm 2015, theo lộ trình, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ được hình thành và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2016. Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II nhấn mạnh, AEC thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong “Tầm nhìn ASEAN 2020” nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó năm yếu tố cơ bản là hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề sẽ được di chuyển tự do trong phạm vi các nước ASEAN, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế - xã hội được giảm bớt vào năm 2020 để từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy thịnh vượng chung cho cả khu vực, tạo sự hấp dẫn đối với đầu tư - kinh doanh từ bên ngoài. Như vậy, có thể thấy nhiệm vụ của AEC là đưa ASEAN trở thành:

Thứ nhất, một thị trường hàng hóa và cơ sở sản xuất duy nhất, thúc đẩy phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của ASEAN với vai trò là một trung tâm sản xuất đáp ứng yêu cầu đối với chuỗi cung ứng toàn cầu; mang lại lợi ích cho các ngành được ưu tiên tham gia hội nhập, như nông nghiệp, hàng không, ô-tô, e-ASEAN, điện tử, ngư nghiệp, chăm sóc sức khỏe, cao su, dệt may và thời trang, du lịch, ngành công nghiệp gỗ và các ngành dịch vụ khác.

Thứ hai, một khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao, thịnh vượng và ổn định, trên cơ sở ưu tiên sáu yếu tố chủ chốt, bao gồm: chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển kết cấu hạ tầng, hệ thống thuế và thương mại điện tử. ASEAN cam kết thúc đẩy văn hóa cạnh tranh công bằng thông qua việc ban hành các chính sách và luật cạnh tranh, bảo đảm sân chơi bình đẳng trong ASEAN và hiệu quả kinh tế khu vực ngày càng cao.

Thứ ba, một khu vực phát triển kinh tế đồng đều với hai điểm nhấn: 1- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) phát triển bằng cách thuận lợi hóa phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ năng, phát triển nguồn nhân lực và công nghệ; 2- Thực hiện các sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) để chỉ ra những lĩnh vực hoạt động cụ thể. IAI là các sáng kiến, chương trình hợp tác nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia thành viên ASEAN, nhất là giữa ASEAN 6 (Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan, Xin-ga-po) và ASEAN 4 (In-đô-nê-xi-a, Mai-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan) qua đó thúc đẩy hội nhập kinh tế của nhóm nước Cam-pu-chia - Lào - Mi-an-ma - Việt Nam (CLMV), cùng hướng tới một mục tiêu chung và bảo đảm tất cả các quốc gia này đều có được lợi ích công bằng trong quá trình hội nhập kinh tế.

Thứ tư, một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới, nhằm giúp ASEAN có thể cạnh tranh thành công trên thị trường toàn cầu, đạt được mục đích sản xuất, trở thành nơi cung ứng quan trọng cho thị trường quốc tế, đồng thời bảo đảm thị trường ASEAN có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Các quốc gia thành viên ASEAN cũng nhất trí tham gia nhiều hơn nữa vào mạng lưới cung ứng toàn cầu bằng việc nâng cao năng suất và hiệu quả. AEC sẽ trở thành tâm điểm của ASEAN với vai trò chủ động tham gia cùng các đối tác thương mại tự do của ASEAN và đối tác kinh tế bên ngoài trong việc đổi mới cấu trúc khu vực.

Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ cần thực hiện để xây dựng một thị trường ASEAN thống nhất, bao gồm: hài hòa các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và quy chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và thương mại, và, hoàn chỉnh các quy tắc về xuất xứ. Các biện pháp để xây dựng một cơ sở sản xuất ASEAN thống nhất sẽ bao gồm: củng cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua nâng cấp kết cấu hạ tầng, đặc biệt là trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và viễn thông, và, phát triển các kỹ năng thích hợp. 

Các mục tiêu nói trên không tách rời mà liên quan chặt chẽ và có tác động qua lại lẫn nhau. Vì thế có thể nói, AEC chính là sự đẩy mạnh những cơ chế liên kết hiện có của ASEAN, như Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Hiệp định khung về hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), Lộ trình hội nhập tài chính và tiền tệ ASEAN,... để xây dựng ASEAN thành “một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất”. Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa trên và nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN, đồng thời bổ sung thêm hai nội dung mới là tự do di chuyển lao động và tự do di chuyển vốn hơn để tạo nên một AEC thịnh vượng và phát triển bền vững.

Cộng đồng Kinh tế ASEAN không hướng tới một cộng đồng giống như Liên minh châu Âu (EU), tức là không đặt mục tiêu trở thành tổ chức siêu quốc gia, không có đồng tiền chung, chính sách kinh tế, tiền tệ chung vì các nước ASEAN có các cấu trúc chính trị và văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, nhìn vào những bài học kinh nghiệm rút ra từ EU, các nhà lãnh đạo AEC đồng tình rằng, ASEAN nên áp dụng các tiêu chuẩn chung cũng như các luật lệ và quy định chung, đồng thời củng cố sức mạnh của cơ quan lãnh đạo tập trung.

Thực trạng hiện thực hóa Cộng đồng Kinh tế ASEAN

Năm 2015 là năm quan trọng và quyết định đối với ASEAN khi 10 quốc gia thành viên đang hướng tới hội nhập và hiện thực hóa AEC. Hiện nay, ASEAN thực sự đã đạt được sức mạnh như một thực thể kinh tế năng động có tiềm năng và triển vọng to lớn đối với thương mại và đầu tư. Nếu trở thành một thực thể kinh tế chung, ASEAN sẽ là nền kinh tế lớn thứ bảy trên thế giới với GDP đạt 2.400 tỷ USD, thương mại nội khối ASEAN lên tới 608,6 tỷ USD, chiếm 24,2% tổng thương mại của khu vực(1), tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước ASEAN lên tới 122,4 tỷ USD (cao nhất so với toàn cầu) trong năm 2013(2), và có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới vào năm 2050 nếu xu hướng này tiếp tục phát triển. Với dân số gần 650 triệu người, thị trường tiềm năng của ASEAN lớn hơn nhiều so với thị trường EU và Bắc Mỹ, chỉ sau thị trường Trung Quốc và Ấn Độ. Đó là chưa kể ASEAN có lực lượng lao động lớn thứ ba trên thế giới và tương đối trẻ.

Năm 2015 là thời điểm nước rút trước khi AEC chính thức đi vào hoạt động và những hàng rào về thuế quan cũng như thủ tục đang được gỡ bỏ trong khi thuế quan đã được cải thiện đáng kể(3). Việc xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan vào cuối năm 2015 được kỳ vọng sẽ mang tới động lực phát triển mạnh mẽ và thắt chặt mối quan hệ giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, những thành tựu đã đạt được trong hợp tác và liên kết nội khối cũng như trong quan hệ hợp tác với các nước ngoài khu vực thì cả khu vực và từng nước thành viên đang phải đối mặt với nhiều khó khăn.

Một là, về mặt lý thuyết, AEC không chỉ đẩy mạnh thương mại nội khối mà còn thu hút đầu tư nước ngoài trong toàn khu vực. Thế nhưng, tác dụng thúc đẩy thương mại nội khối của AEC có thể không nhiều do cộng đồng này tiếp tục phải chịu tác động của các rào cản thương mại và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, trong bối cảnh kết cấu hạ tầng vẫn còn thiếu thốn nghiêm trọng. Theo học giả người Phi-líp-pin E-đua-đo Ta-đem (Eduardo Tadem), đến đầu năm 2015, ASEAN vẫn chưa thể dỡ bỏ khoảng 20% trong số những rào cản thương mại dự kiến sẽ được tháo gỡ, và trên thực tế điều này rất khó thành hiện thực. Một số quốc gia chủ chốt của ASEAN chưa muốn cắt giảm các hạng mục thuế quan quan trọng nhất của mình, trong khi nhiều rào cản trong số đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tiến trình tự do hóa thương mại nội khối.

Hai là, sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước. Những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn trong khối lo ngại sự xâm nhập của các nền kinh tế mạnh hơn, khi viễn cảnh thị trường trong nước bị hàng hóa ngoại nhập tràn vào với tình trạng nhập siêu tiếp diễn trong mấy năm gần đây. Trong khi đó, các thành viên có nền kinh tế phát triển ở mức cao trong khu vực sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ các ngành sản xuất hiện đại, như công nghiệp nặng, hóa chất, dược phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng và các ngành dịch vụ khác... Chẳng hạn, theo mục tiêu, các rào cản pháp lý về ngăn cản ngân hàng của một nước thành viên ASEAN hoạt động trên lãnh thổ của nước thành viên ASEAN khác sẽ được dỡ bỏ. Như vậy, không chỉ các nước CLMV mà ngay cả In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin cũng rất lo ngại sự “thống trị” của các ngân hàng nước ngoài trong thị trường tài chính của nước mình. Hiện nay, các ngân hàng của Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a rất tích cực mở rộng phạm vi hoạt động ở các nước thành viên ASEAN khác. Trong khi đó, mức độ thâm nhập thị trường ngân hàng nội khối bởi ngân hàng của các nước ASEAN khác có thể nói là không đáng kể. Như vậy, trong khi lĩnh vực thương mại có những bước tiến đáng kể hướng đến AEC, thì tốc độ và mức độ hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng khá chậm và hạn chế. Thị phần tài sản ngân hàng của ASEAN do các ngân hàng nội khối nắm giữ nhìn chung vẫn nhỏ hơn thị phần do ngân hàng các nước ngoài khối nắm giữ.

Ba là, theo chỉ số do AEC công bố năm 2012, bốn mục tiêu chính của AEC đều đã đạt được những tiến triển đáng kể, bao gồm: thị trường thống nhất (65,9%); sức cạnh tranh kinh tế của khu vực (67,9%); trình độ phát triển kinh tế đồng đều (66,7%); hội nhập kinh tế thế giới (85,7%). Đến tháng 8-2013, có khoảng 77,5% và đến đầu năm 2015 có khoảng trên 80% mục tiêu được hoàn thành(4). Tuy nhiên, khi thời hạn 2015 cán đích, AEC phải rất nỗ lực để có thể đạt được toàn bộ các mục tiêu đề ra do các nước thành viên vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất.

Bốn là, trong số các nước ASEAN vẫn đang có những quan điểm khác nhau về các hiệp định thương mại tự do (FTA) với sự tham gia của các nước thành viên ASEAN. Đó là trường hợp đàm phán để kết thúc Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Chẳng hạn như Ma-lai-xi-a, Bru-nây và Xin-ga-po, bên cạnh việc đàm phán TPP sẽ thúc đẩy quá trình đàm phán RCEP và tìm kiếm các khoản hỗ trợ từ Ngân hàng phát triển hạ tầng châu Á (AIIB). Các cơ chế ASEAN cũng sẽ được tập trung củng cố và hoàn thiện; mức đóng góp của các thành viên với ASEAN sẽ được xem xét tăng lên trong thời gian tới nhằm cung cấp thêm nguồn lực cho các cơ quan chủ chốt như Ban Thư ký ASEAN. Nguồn lực để hiện thực hóa các mục tiêu mà AEC đặt ra cũng là một khó khăn phải tính đến.

Có thể thấy rằng, kế hoạch hiện thực hóa AEC là một mục tiêu dài hạn và năm 2015 là một cột mốc. Theo Bộ trưởng Công Thương Ma-lai-xi-a, việc thành lập AEC không chỉ có nghĩa là ASEAN sẽ trở thành một thực thể kinh tế chung kể từ ngày 1-1-2016, mà còn chuyển tải tín hiệu mạnh cho thấy cần phải đưa ra những biện pháp tích cực để hướng tới một khu vực kinh tế tự do và hội nhập hơn(5). Việc cố gắng chính thức thành lập AEC vào cuối năm 2015 sẽ đánh dấu một mốc quan trọng nỗ lực của ASEAN trong việc hoàn thành các mục tiêu của một khu vực hội nhập, thể hiện ở “Một tầm nhìn, một bản sắc, một cộng đồng”(6).

“Cộng đồng này tạo nên một nền tảng quan trọng để phát triển và đây thực sự là một cộng đồng kinh tế để tất cả mọi người đều được hưởng lợi cho dù đến cuối năm 2015 AEC chưa thể hoàn hảo”(7). Chính phủ các nước AEC cần cải cách khung chính sách luật pháp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng để tạo nên một thị trường chung hội nhập thật sự. Sự nỗ lực của các nước và của cả khu vực sẽ là động lực thúc đẩy hình thành Cộng đồng như thời gian đã định.

Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Khả năng nền kinh tế nước ta khai thác và hấp thụ những lợi thế tích cực, cũng như khả năng chịu đựng trước những tác động tiêu cực khi AEC được hình thành phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không chỉ có năng lực cạnh tranh của mỗi loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, của bản thân doanh nghiệp mà còn của cả nền kinh tế(8). Có thể nêu một số vấn đề cần lưu ý, thực hiện khi AEC sẽ có hiệu lực như sau:

Thứ nhất, triển khai các hoạt động nghiên cứu, đánh giá tác động của AEC đối với các lĩnh vực hàng hóa, đầu tư, dịch vụ,... để có cơ sở xây dựng và điều chỉnh chính sách dài hạn. Đồng thời, thông qua việc nâng cấp năng lực, công nghệ, hợp tác dài hạn với các đối tác mạnh trong lĩnh vực tương ứng, đa dạng hóa đổi mới sản phẩm thúc đẩy tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong tất cả các ngành của nền kinh tế.

Thứ hai, xây dựng chính sách phát triển các ngành công nghiệp theo dự kiến sẽ có tiềm năng và lợi thế trong AEC, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia các chuỗi cung ứng trong khu vực; tập trung vào các ngành sản xuất mũi nhọn mà Việt Nam có lợi thế, như giày dép, dệt may, điện tử, phần mềm và chế biến thực phẩm,… Từ đó thiết lập cơ sở cho các ngành sản xuất có trình độ cao hơn, phát triển từng bước thành một nền sản xuất có hàm lượng tri thức cao, đem lại lợi ích kinh tế cho xã hội, nâng cao thị phần các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam, từng bước khắc phục tình trạng chỉ thực hiện các hợp đồng gia công cho các nước khác.

Đặc biệt chú trọng phát huy thế mạnh của Việt Nam là một quốc gia biển với 1 triệu km2 biển, phải thâm canh trên từng km2, tạo ra các sản phẩm hải sản có chất lượng cao. Việc phân cấp quản lý lãnh thổ, rừng, bờ biển, sông ngòi giữa Trung ương, vùng và tỉnh cần nhằm tập trung quyền lực để phát triển kết cấu hạ tầng. Khi xây dựng kết cấu hạ tầng cần dựa trên một thực tế Việt Nam là quốc gia “lưỡng phần lãnh thổ”, bao gồm phần đất (lục) và phần biển (hải). Mọi tính toán và hành động mang tầm vĩ mô trên đất liền đều phải tính đến tác động của nó đối với biển và ngược lại.

Thứ ba, Chính phủ cần hỗ trợ và hướng tới tăng cho vay đối với các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thực sự và đặc biệt là khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như cần tăng cường đánh giá khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Muốn vậy, phải cải tổ khu vực tài chính vì không thể có nền kinh tế tốt nếu không có nền tài chính tốt. Theo Giáo sư Gi. Xti-glit (Stiglitz Joseph) - người được giải Nobel kinh tế năm 2001, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay thì rủi ro thường lớn bởi khu vực này dễ bị thất bại và tổn thương, nhưng có thể tránh được bằng cách lập ra cơ quan quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ, vừa để hỗ trợ, vừa để hạn chế sự thất bại của những doanh nghiệp này(9).

Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó khăn trong việc thu hút và giữ chân người tài và nguồn nhân lực chất lượng cao. Lực lượng lao động có tay nghề, có trình độ đều có tâm lý không muốn làm cho doanh nghiệp nhỏ. Dự báo, các doanh nghiệp này sẽ rất khó tìm được nhân lực vừa ý ở những vị trí chủ chốt, như phụ trách ma-két-ting, sản xuất (hiện nay 90% doanh nghiệp của Viêt Nam là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ), dẫn tới chỗ Việt Nam có nguy cơ “chảy máu” chất xám, đối mặt với nguy cơ cách biệt xa hơn với các nước dẫn đầu trong khu vực. Trong khi đó, các nước, như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a được coi là nơi thu hút nhân tài trong khu vực. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần có chính sách để giữ chân những người tài giỏi, cùng với đó là chiến lược phát triển nhân sự, làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, ngành hàng chiến lược mà mình có lợi thế, đồng thời củng cố, đào tạo, nâng cao trình độ và tay nghề đội ngũ nhân lực, đề ra các mục tiêu và phương thức hướng hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với các đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để làm được điều này rất cần có sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ.

Thứ năm, nền kinh tế nếu chỉ dựa vào lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên, công nghệ thấp sẽ đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp trong cạnh tranh hàng hóa, dịch vụ với các nước trong khối. Hiện nay, lao động kỹ năng thấp đang chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động khiến Việt Nam không dễ thoát khỏi việc trở thành “đại công xưởng” gia công. Điều này đồng nghĩa Việt Nam có thể yếu thế cạnh tranh so với các đối thủ trong nội khối về chất lượng hàng hóa và quy mô thị trường cũng như nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ hấp dẫn cho các doanh nghiệp cùng ngành từ các nước trong AEC. Những đối thủ mới được phép mở rộng hoạt động trong AEC đặt các nhà xuất khẩu ở Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt đến từ các thị trường lớn hơn cũng như nguy cơ cao bị đẩy khỏi thị trường trừ khi Việt Nam có những cải thiện đáng kể về chất lượng và đột phá trong sản xuất.

Thứ sáu, doanh nghiệp cần phải tìm hiểu để nắm vững, hiểu rõ AEC đang mở cửa đến đâu để có lộ trình cho sự chuẩn bị nhằm vượt qua những tiêu chuẩn cần thiết và khó khăn(10). Các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu thông tin liên quan về AEC, đồng thời tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tranh thủ lợi thế về vốn, nhân lực và kỹ thuật của các đối tác. Về dài hạn, các doanh nghiệp trong nước cần bám sát lộ trình và các quy định về mở cửa thị trường của AEC nhằm xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, tận dụng được cơ hội tham gia chuỗi cung ứng trong khu vực(11).

Thứ bảy, từ thực tế năng lực của mỗi quốc gia, sức ép từ hàng hóa nhập khẩu, cạnh tranh về dịch vụ, đầu tư,... của các nước phát triển hơn trong AEC dẫn đến một số ngành/sản phẩm có khả năng bị thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trường của chính mình. Điều này có thể làm gia tăng sự phân hóa thu nhập. Hiện nay thu nhập bình quân đầu người của Xin-ga-po gấp 33,7 lần của Việt Nam.

Để giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra đối với nước ta khi AEC được hình thành, bên cạnh tinh thần chủ động, tích cực chuẩn bị của doanh nghiệp, các ngành, các cấp, vai trò dẫn dắt của Nhà nước là cực kỳ quan trọng để có thể tạo ra môi trường kinh doanh (cả trong nước và ngoài nước) hiệu quả và thuận lợi cho doanh nghiệp.

“Thời gian nước rút trong lộ trình hình thành AEC không còn nhiều. Việt Nam cần chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đón bắt cơ hội, vượt qua thách thức cũng như đề ra các công việc cần phải làm để có thể tự tin và tham gia một cách có hiệu quả vào sân chơi khu vực”(12). Cải cách kinh tế, cải cách thể chế, cơ cấu lại nền kinh tế ở cấp quốc gia, ngành, doanh nghiệp chính là mệnh lệnh của cuộc sống để vươn lên trong AEC./.

---------------------------------------------

(1) So với 458,1 tỷ USD trong năm 2008 khi Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC bắt đầu được thực hiện, kim ngạch nhập khẩu của toàn khối ASEAN (không tính Mi-an-ma) hằng năm đạt khoảng 1.329 tỷ USD, xuất khẩu đạt 1.460,8 tỷ USD (xem: “Cộng đồng kinh tế ASEAN - Cơ hội và thách thức?” Citinews online, ngày 2-9-2013)

(2) Kim Dung: “Thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN là một cột mốc quan trọng”, Vietnam+online, ngày 1-3-2015

(3) Nhận định của ông Te-re-xi-ta Xy Cô-xăn (Teresita Sy Coson), Phó Chủ tịch Tập đoàn đầu tư SM (Phi-líp-pin) tại Diễn đàn kinh tế Đông Á lần thứ 24 diễn ra ở Thủ đô Gia-các-ta (In-đô-nê-xi-a) ngày 21-4-2015

(4) Trần Khắc Thành: “Khó khăn hiện thực hóa Cộng đồng Kinh tế ASEAN năm 2015”, Toquoc.gov.vn, ngày 23-2-2015

(5) Phát biểu của ông Mu-xta-pa Mô-ha-mét, Bộ trưởng Công Thương Ma-lai-xi-a tại cuộc họp báo sau khi kết thúc Hội nghị hẹp Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 21 tại Cô-ta Ba-ru (Ma-lai-xi-a), ngày 1-3-2015

(6) Mục tiêu này tuân theo đúng Tuyên bố Nây-pi-tô về “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2015” được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 25 (tháng 11-2014), nhằm đẩy mạnh hội nhập ASEAN, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng, thúc đẩy phát triển ASEAN thành một cộng đồng hoạt động theo quy định chặt chẽ

(7) Phát biểu của ông An-thô-ny Ph. Phéc-nan-đơ (Anthony F. Fernandes), Chủ tịch Hãng Hàng không AirAsia (Ma-lai-xi-a) tại Diễn đàn kinh tế Đông Á lần thứ 24

(8) Hiện nay, theo đánh giá của Hội đồng kinh doanh Mỹ, tham nhũng, thể chế tiếp tục là những vấn đề khiến nhà đầu tư không hài lòng và hệ quả là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế sẽ bị giảm sút. Tại Việt Nam, năm 2013 tỷ lệ phàn nàn về tham nhũng chiếm tỷ lệ cao nhất (77%), tiếp đến là hệ thống văn bản pháp luật (59%) và kết cấu hạ tầng (57%) (xem: Cộng đồng doanh nghiệp Mỹ, Báo cáo khảo sát 2012/2013 về tình hình kinh doanh tại Đông Nam Á, Oa-sinh-tơn, 2013)

(9) X. Giô-dép (Stiglitz Joseph), tham luận tại Tọa đàm bàn tròn về “Triển vọng kinh tế toàn cầu và khả năng tác động đến Việt Nam” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức tại Hà Nội, ngày 19-3-2014

(10) Theo số liệu của Hiệp hội doanh nghiệp trẻ, hiện có tới 80% số doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam còn thờ ơ, không biết những gì đang đợi họ trước thềm Cộng đồng kinh tế ASEAN (xem: Nguyệt Quế: “Việt Nam đã sẵn sàng cho việc gia nhập AEC”, Infornet, ngày 26-1-2015)

(11) Xem: Thuận Hóa: “Doanh nghiệp Việt Nam và đường vòng tới AEC”, Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 31-1-2015

(12) Vương Đình Huệ: Tham luận tại Hội thảo khoa học “Hướng tới cộng đồng kinh tế ASEAN và một số gợi ý chính sách đối với Việt Nam” tại Hà Nội, ngày 28-10-2014