Bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số ở nước ta trong điều kiện hiện nay
TCCSĐT - Trải qua các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương, nguyên tắc trong đường lối, chính sách dân tộc, đó là xây dựng khối đoàn kết, bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc, phát triển toàn diện về kinh tế - chính trị - xã hội nhằm bảo đảm các quyền và sự tiếp cận các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trên mọi mặt của đời sống, trên cơ sở hệ thống pháp luật quốc gia và một số chính sách đặc thù đối với vùng đồng bào dân tộc.
Một số kết quả thực hiện việc bảo đảm các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta thời gian qua
Xét dưới góc độ quyền con người và quyền của các dân tộc thiểu số, hệ thống pháp luật của nước ta đã có những bước phát triển và tiến bộ đáng kể. Bên cạnh những quy định bảo đảm quyền con người nói chung còn có những điều luật quy định đặc thù và các chính sách cụ thể như chính sách về đất đai, giáo dục, y tế, vay vốn tạo việc làm, chính sách bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc rất ít người... nhằm bảo đảm quyền và thúc đẩy thực thi quyền cho các đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số, phấn đấu cho mục tiêu chung là thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Trên cơ sở đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện của Chính phủ thông qua các quy định và chính sách cụ thể, quyền của các dân tộc thiểu số đã được thực hiện tốt trên nhiều mặt. Về các quyền chung, đồng bào dân tộc thiểu số được đối xử bình đẳng trước pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội mà không có sự phân biệt đối xử hay trường hợp ngoại lệ, nhất là các quyền về tự do cư trú, đi lại, quyền quốc tịch, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng. Bên cạnh đó, nhiều quy định luật pháp và chính sách đặc thù của Nhà nước đã thúc đẩy đồng bào dân tộc tiếp cận các quyền cơ bản đó một cách thuận lợi và đầy đủ hơn nhằm thực hiện nguyên tắc “bình đẳng” do những điều kiện bất lợi về môi trường sống, chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khác biệt về văn hóa đưa lại. Nội dung này được thể hiện trên các mặt sau đây:
Về chính trị
Quyền tham gia bầu cử, ứng cử là quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong những kỳ bầu cử vừa qua, tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu ở vùng đồng bào dân tộc thường chiếm tỷ lệ rất cao, là minh chứng rõ nét cho việc thực hiện và bảo đảm quyền chính trị của công dân nói chung. Việc tham gia bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị đại diện cho nhân dân cũng đạt được những thành tựu đáng kể, tăng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu thành phần các cấp qua các nhiệm kỳ. Về số lượng, đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số đã tăng theo các khóa; đến Khóa XIII (2011 - 2016) chiếm tới 15,6%, cao hơn tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số. Về đại biểu hội đồng nhân dân các cấp là người dân tộc thiểu số: nếu như Khóa XI (2002 - 2007): có 14% ở cấp tỉnh, thành phố; 17% ở cấp huyện, 19% ở cấp xã, phường thì đến Khóa XIII đạt tỷ lệ 18,0% cấp tỉnh; 20,10% ở cấp huyện; 22,46% ở cấp xã(1).
Về kinh tế
- Kết cấu hạ tầng ngày càng được nâng cấp đã cải thiện bộ mặt nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện đã có 92% số xã có đường ô-tô đến trung tâm xã; 95% số xã có điện; 80% số xã có thủy lợi nhỏ; 65% số xã có công trình nước sinh hoạt (2).
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách giúp người dân bảo đảm và tiếp cận nguồn lực đất đai, rừng, cải thiện các điều kiện sống, như: Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg về hỗ trợ hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn về nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt; Quyết định số 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn… Những chính sách này đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu đất, ổn định đời sống đồng bào dân tộc ở các địa phương cho hàng trăm nghìn hộ, tập trung nhiều nhất là ở các huyện trọng điểm theo Nghị quyết 30a, góp phần giảm tỷ lệ nghèo và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Thực hiện Đề án 1956 về dạy nghề nông thôn, trong 3 năm (2010 - 2013) đã có 223.792 người lao động dân tộc thiểu số được học nghề, (chiếm tỷ lệ 25,24% so với tổng số lao động được đào tạo)(3).
Về giáo dục, y tế, văn hóa
- Việc bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục là mục tiêu cơ bản trong chính sách phát triển của Nhà nước Việt Nam. Hệ thống cơ sở vật chất đã được xây dựng tương đối đồng bộ ở tất cả các xã vùng dân tộc cùng hệ thống điểm trường ở thôn, bản, hệ thống các trường dân tộc nội trú, trường bán trú dân nuôi, cùng với chính sách hỗ trợ sinh hoạt phí cho học sinh nghèo đã giúp cho con em đồng bào dân tộc có cơ hội đến trường, tiếp cận nền giáo dục quốc gia. Đến năm 2012, tỷ lệ biết chữ (phạm vi từ 10 tuổi trở lên) trong đồng bào dân tộc là 83,8%, một con số rất đáng mừng so với thời kỳ trước năm 1975.
- Hệ thống y tế, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển rộng khắp, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Việc tăng đầu tư chung cho lĩnh vực y tế đã giúp việc xây mới, nâng cấp, sửa chữa kết cấu hạ tầng và đầu tư trang thiết bị y tế cho hầu hết các cơ sở y tế vùng đặc biệt khó khăn, với mạng luới 99% số xã có trạm y tế và 94% số thôn, bản có cán bộ y tế; hệ thống bệnh viện đa khoa tuyến huyện được xây dựng đồng bộ trên cả nước.
- Các thiết chế văn hóa cơ sở, như nhà văn hóa, thư viện, câu lạc bộ, trung tâm sinh hoạt cộng đồng... ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chỉ đạo tập trung xây dựng ở các làng, thôn, bản, buôn, phum, sóc... Hầu hết các xã vùng dân tộc, miền núi có nhà văn hóa hoặc điểm bưu điện văn hóa; nhiều thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng. Đây là nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng với nhiều dạng thức phong phú. Nhiều lễ hội ở các vùng dân tộc được khôi phục, tổ chức nhằm bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc, kể cả các dân tộc thiểu số rất ít người.
Một số vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong điều kiện hiện nay
Đất nước ta hiện nay đã bước vào giai đoạn phát triển mới, tiềm lực quốc gia được tăng cường, vị thế chính trị ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Điều này đem lại yếu tố thuận lợi đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh những thuận lợi đó, cũng có những tác động, ảnh hưởng nhất định đến vùng đồng bào dân tộc.
Tác động của nền kinh tế thị trường tạo điều kiện và phát huy tiềm năng phát triển vùng đồng bào dân tộc là cơ hội cho đồng bào chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất. Kinh tế thị trường thúc đẩy trao đổi quan hệ hàng hoá - tiền tệ vào quan hệ kinh tế tự nhiên của đồng bào tạo nên những biến đổi phức tạp trước những dòng chảy quy luật của thị trường.
- Đồng bào dân tộc thiểu số nước ta phần lớn sống ở vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, kết cấu hạ tầng còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển nên khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản như giao thông, thông tin liên lạc, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe còn hạn chế. Bên cạnh đó, các điều kiện về bảo đảm lương thực, nhu cầu mặc và chỗ ở an toàn vẫn còn là thách thức đối với một số vùng, nhóm dân cư do sinh sống ở các khu vực có môi trường tự nhiên không thuận lợi.
- Chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, lao động trong độ tuổi qua đào tạo thấp, chỉ đạt từ 5% - 20% (tùy từng dân tộc). Vẫn còn tình trạng một bộ phận dân cư mù chữ hoặc tái mù chữ, cộng với trình độ văn hóa thấp đã hạn chế khả năng tiếp cận và hưởng thụ các thành quả phát triển gắn với tiêu chí về các quyền cơ bản. Cùng với nó, trình độ năng lực hạn chế sẽ dẫn đến khả năng tự bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân của cá nhân được luật pháp thừa nhận cũng hạn chế.
- Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng hóa, nhất là ở các cộng đồng vùng nghèo dưới tác động của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại, xâm thực văn hóa, xâm nhập và biến đổi tôn giáo - tín ngưỡng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều thiết chế tổ chức, quản lý làng, bản truyền thống gắn với các cộng đồng không gian văn hóa bị phá vỡ (hoặc phá bỏ trong quá trình phát triển). Sức bảo vệ trước dòng chảy văn hóa của một số cộng đồng dân tộc thiểu số trở nên suy yếu, cần có những chính sách trợ lực để bảo vệ bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc.
- Bộ máy hành chính, các tổ chức cung cấp dịch vụ công, việc thực thi nhiệm vụ, thi hành pháp luật của công chức, viên chức nhà nước cũng là vấn đề cần quan tâm trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của công dân, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Sự hiểu biết, trách nhiệm và lòng kiên trì là những phẩm chất cần thiết đối với những cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc và lĩnh vực dân tộc.
Bối cảnh và tình hình chính trị, kinh tế - xã hội nói trên đã tác động không nhỏ đến chính sách dân tộc cũng như việc bảo đảm các quyền của đồng bào dân tộc, cả thuận lợi và khó khăn, cả thách thức và cơ hội. Trong đó, thuận lợi vẫn là nét cơ bản, nhất là sự phát triển không ngừng của đất nước, công cuộc đổi mới và dân chủ hóa đời sống xã hội. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các quyền cơ bản con người, quyền công dân, mà trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số.
Một số giải pháp bảo đảm quyền của đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay
Để bảo đảm các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cơ sở pháp lý ngày càng đầy đủ hơn cho việc bảo vệ và thúc đẩy, phát triển các quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, yêu cầu tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người. Trong đó, tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa nói chung và quyền của nhóm đối tượng dân tộc thiểu số nói riêng.
- Hai là, việc bảo đảm các quyền cho đồng bào dân tộc thiểu số phải được coi là đối tượng ưu tiên trong việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này. Không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật và quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu số phải được bảo đảm trên thực tế trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế - văn hóa - xã hội; thực hiện trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc, bình đẳng trước pháp luật.
- Ba là, việc bảo đảm các quyền của người dân phải được thể chế hóa bằng luật pháp, chính sách, được luật pháp tôn trọng, bảo vệ và có giá trị thực tiễn. Bảo đảm tính thống nhất giữa pháp luật chung với những quy định mang tính đặc thù. Việc thể chế hóa các nội dung quyền cụ thể căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước phù hợp trong từng giai đoạn theo chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
- Bốn là, thực thi một cách đồng bộ và toàn diện các chương trình, chính sách phát triển hạ tầng, kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện dịch vụ xã hội và bảo tồn các giá trị văn hóa ở vùng dân tộc nhằm bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, thực hiện công bằng xã hội và giảm dần sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, các nhóm dân tộc.
- Năm là, xây dựng chế độ trách nhiệm thực thi nhiệm vụ của cán bộ công chức, nhất là cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số, bảo đảm mỗi người có thể phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm của mình trong quá trình thực thi công vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm các quyền của công dân, quyền con người đối với đồng bào dân tộc, là các đối tượng có trình độ năng lực pháp lý hạn chế, dễ bị tổn thương và ít có khả năng tự bảo vệ.
- Sáu là, xây dựng năng lực nội sinh là một ưu tiên để đồng bào dân tộc thực thi, hội nhập trong chính sách phát triển quốc gia, biết tự chọn lọc, tự bảo vệ các giá trị và quyền lợi cơ bản cá nhân cũng như cộng đồng trong khuôn khổ hệ thống pháp luật nhà nước nói chung. Là làm tốt công tác giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường nhận thức và phổ biến giáo dục pháp luật cho các tầng lớp đồng bào dân tộc.
- Bảy là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thực thi pháp luật, chú trọng đặc biệt công tác xét xử, công tác tư pháp. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo. Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan tư pháp và sự giám sát của đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội trong thực thi pháp luật ở vùng dân tộc và chính sách dân tộc.
-------------------------------------------------------------
(1) Báo cáo giám sát của Hội đồng dân tộc, năm 2014
(2) Báo cáo đánh giá triển khai thực hiện chính sách vùng dân tộc và miền núi, Ủy ban Dân tộc, năm 2013
(3) Báo cáo giám sát của Hội đồng dân tộc năm 2013
Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân tiếp Đại sứ Cộng hòa Liên bang Đức  (28/07/2015)
Thủ tướng đôn đốc tiến độ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật  (28/07/2015)
- Xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực qua gần 40 năm đổi mới
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Tỉnh Nam Định xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay