Phụ nữ An Giang với công tác chăm lo cho hội viên nghèo

Võ Thị Ánh Xuân
15:16, ngày 19-10-2009

TCCS - Hằng năm, An Giang có trên 30.000 người bước vào tuổi lao động, trong đó lao động nông nghiệp là chủ yếu. Tuy lực lượng lao động khá dồi dào nhưng tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, hộ nghèo vẫn còn nhiều, nhất là đối với lao động nữ ở nông thôn, vùng đồng bào dân tộc. Giúp phụ nữ phương cách thoát nghèo, vươn lên đang là nhiệm vụ trọng tâm của Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tỉnh An Giang.

Nhiều cách làm thiết thực giúp phụ nữ thoát nghèo

Tổ chức thực hiện chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, theo Quyết định số 19/2002/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và cấp ủy địa phương về xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, tạo cơ hội cho phụ nữ nghèo vươn lên trong cuộc sống được An Giang xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, nhằm bảo đảm công bằng xã hội, sự tăng trưởng bền vững trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.

Hiện nay, An Giang có trên 90% hộ phụ nữ chủ hộ nghèo được giúp trên nhiều lĩnh vực, trong các năm 2006 - 2008, Hội đã khai thác gần 213 tỉ đồng giúp cho trên 70.000 lượt hộ vay.

Từ các nguồn vốn trên, Hội ở cơ sở đã lập 1.483 tổ tiết kiệm và tín dụng với 47.836 thành viên, trong đó có 386 tổ hùn vốn xoay vòng với 5.970 thành viên. Chính những hoạt động này đã giúp cho chị em có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn, mạnh dạn mở rộng các mô hình làm kinh tế, đồng thời thể hiện được tinh thần tương thân tương ái qua việc các hộ phụ nữ khá giúp các hộ phụ nữ nghèo có vốn làm ăn. Bên cạnh đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh còn tranh thủ các nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm giúp hội viên, phụ nữ nghèo có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn đầu tư mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế gia đình như: ngân hàng chính sách xã hội, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, quỹ châu Á, tổ chức Care, vốn của Việt kiều Pháp, nguồn do Hội tự vận động từ phụ nữ khá giúp phụ nữ nghèo, hoặc thông qua các mô hình tổ, nhóm hùn vốn, tương trợ...

Để giải quyết việc làm cho các lao động nữ nhàn rỗi, thất nghiệp, giúp các chị em có tay nghề, tăng thêm thu nhập cải thiện cuộc sống gia đình, các lớp dạy nghề đã được mở ra, ở các ngành nghề, thu hút lao động nữ địa phương có ưu thế: 361 lớp may dân dụng, may công nghiệp, đan giỏ, thắt bím lục bình cho hơn 9.300 học viên. Giới thiệu gần 20.000 lao động vào làm việc trong các công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trong và ngoài tỉnh; tư vấn xuất khẩu lao động cho 3.732 trường hợp, trong đó giới thiệu 391 trường hợp xuất khẩu lao động như: Hội Phụ nữ huyện An Phú phối hợp với UBND các xã, thị trấn tổ chức hội thảo việc làm cho 232 nữ thanh niên trong độ tuổi lao động, nhằm định hướng, tạo điều kiện cho lao động nữ có việc làm.

Hội phụ nữ cấp huyện và cơ sở phối hợp với ngành nông nghiệp, Hội Nông dân tổ chức 1.156 lớp tập huấn, hội thảo chuyển giao khoa học - công nghệ, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt... cho 35.666 lượt cán bộ, hội viên, phụ nữ. Hội các cấp còn giới thiệu 19.435 cán bộ, hội viên tham gia các lớp tập huấn do Phòng Nông nghiệp và Trạm Bảo vệ thực vật huyện tổ chức. Qua các lớp tập huấn, hội thảo đã giúp cho các hộ chăn nuôi, sản xuất nâng cao năng suất, cải thiện kinh tế gia đình, kếtquả có 324 chị được bình chọn là nông dân sản xuất giỏi.

Hưởng ứng phong trào xây dựng "Mái ấm tình thương" cho phụ nữ nghèo do Trung ương Hội phát động, Hội đã phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và ban ngành, đoàn thể địa phương vận động được trên 3 tỉ đồng, 120 tấn gạo, hỗ trợ được cho 37.227 lượt hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, phụ nữ đơn thân, người già neo đơn... đồng thời phối hợp vận động 3,1 tỉ đồng cất sửa 616 căn nhà tình thương cho hộ nghèo. Với những việc thiết thực như vậy, nhiều hộ nghèo ở các địa phương trong tỉnh đã có cuộc sống ổn định. Các mô hình tập hợp phụ nữ ngày càng được nhân rộng với nhiều hình thức phong phú và đa dạng, thể hiện qua các tiêu chí giúp phụ nữ về nhiều nội dung, thiết thực, cụ thể như các tổ, nhóm, câu lạc bộ phụ nữ: "Không để con bỏ học giữa chừng", "Không để con suy dinh dưỡng", "Không có người thân tham gia tệ nạn xã hội", "Gia đình hạnh phúc", "phát triển kinh tế gia đình"...

Trong các phong trào ấy, nổi bật là Hội Phụ nữ xã Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành thực hiện mô hình "Hội viên làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" với nhiều việc làm cụ thể: tham gia vào "Tổ phụ nữ bỏ ống heo đất" và "Tổ hùn vốn xoay vòng"... lập được 6 tổ tiết kiệm bỏ ống heo đất, 115 thành viên tham gia, số tiền tiết kiệm được 45.000.000 đồng; lập 4 tổ hùn vốn tiết kiệm xoay vòng, 61 thành viên, tổng số tiền xoay vòng trên 8.500.000 đồng. Có thể nói, đây là 2 mô hình có hiệu quả và phù hợp thực tế. Tuy số tiền tiết kiệm không lớn nhưng đã giúp đỡ kịp thời, đúng lúc cho chị em như: đóng tiền học phí cho con đi học, mua bảo hiểm y tế cho gia đình, tiền mua thuốc khi ốm đau, mua vật dụng sinh hoạt cần thiết... thể hiện sự chia sẻ ấm áp tình người, tinh thần tương thân tương ái giữa người với người.

Qua mô hình điểm tại xã Hòa Bình Thạnh (huyện Châu Thành), Hội đã nhân rộng phong trào và thu hút được đông đảo chị em tham gia, xuất hiện một số cá nhân tiêu biểu. Chị Nguyễn Thị Thu, ngụ tại Tổ 7, ấp Bình Đức, xã Bình Phú (huyện Châu Phú), hằng ngày chị bỏ ống tre tiền tiết kiệm, qua đó chị giúp hội viên nghèo trang trải trong lúc khó khăn, đồng thời chị cũng vận động được 8 chị tham gia vào Câu lạc bộ bỏ ống tre tiết kiệm. Chị Nguyễn Thị Huê, ngụ tại ấp Hòa Thịnh, xã Hòa Bình Thạnh (huyện Châu Thành) với nghề may quần áo mướn, chị tiết kiệm bỏ "ống heo đất" có tiền đóng học phí, chăm lo cho con ăn học...

Chú trọng công tác xóa đói, giảm nghèo đối với phụ nữ dân tộc Khmer

Phụ nữ vùng đồng bào dân tộc Khmer của An Giang hiện nay còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Chính vì vậy, chăm lo cho bộ phận này được đặc biệt quan tâm, trước hết là tập trung vận động làm thay đổi những tập tục lạc hậu. Mặt khác, khôi phục các ngành nghề truyền thống, giúp chị em phụ nữ người dân tộc tăng gia sản xuất, phát triển các mô hình kinh tế gia đình. Tiêu biểu là những hoạt động của Hội Phụ nữ huyện Tri Tôn, huyện miền núi có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống, thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động, tập trung hướng về cơ sở, nhất làgiúp các phụ nữ nghèo xây dựng các mô hình và quản lý mô hình hoạt động đạt hiệu quả. Cụ thể là mô hình điểm ở 2 xã Lê Trì và Châu Lăng, đã cung cấp vốn cho hội viên đầu tư mua bán nhỏ, duy trì và phát triển ngành nghề làm bếp lò truyền thống, đến nay đã có nhiều chị em có cuộc sống ổn định và vươn lên thoát nghèo. Lớp thắt bím lục bình tại xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, có 50 chị em phụ nữ là người dân tộc Khmer với đủ mọi lứa tuổi dự học; ngoài việc học nghề, các chị còn được hỗ trợ 10.000 đồng/ người/ ngày, nhằm giúp cho chị em bớt khó khăn. Tiêu biểu là chị Néang Sa Na, ngụ tại ấp Sóc Tức, xã Lê Trì, huyện Tri Tôn, Tổ trưởng Tổ làm nồi đất của ấp. Nhờ chịu khó học hỏi, đầu tư nghiên cứu thay đổi kiểu dáng phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, mỗi sản phẩm làm ra có giá bán tăng gấp 10 lần so với những sản phẩm truyền thống, qua đó góp phần tăng thu nhập cho gia đình và tích cực giúp đỡ bà con lối xóm. Mới đây chị đã vinh dự được kết nạp vào Đảng.

Với những cách làm cụ thể và thiết thực như trên, thực sự đã góp phần quan trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn huyện. Nhiều hộ trở nên khá giả, số hộ nghèo giảm, bà con tin tưởng vào các cấp chính quyền, không bị các thế lực thù địch lợi dụng.

Với nhiều cách làm cụ thể và thiết thực như vậy, Hội các cấp đã góp phần quan trọng giảm tỷ lệ hộ nghèo. Tính đến cuối năm 2008, toàn tỉnh còn 33.461 hộ nghèo so với 58.543 hộ nghèo năm 2006 và 13.645 phụ nữ chủ hộ nghèo so với 16.109 hộ năm 2006, bình quân mỗi năm giảm từ 800 - 1.000 hộ.

Do có những đóng góp to lớn đối với sự ổn định và phát triển của kinh tế địa phương, năm 2009, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì.

Một số kinh nghiệm và giải pháp trong thời gian tới

Từ hoạt động thực tiễn, Hội Liên hiệp Phụ nữ An Giang rút ra nhưng bài học kinh nghiệm:

1. Giải pháp đột phá giúp cho phụ nữ thoát nghèo là phải dạy cho chị em có tay nghề, có việc làm và thu nhập ổn định. Các cấp Hội chuyển dần từ việc chỉ tập trung giúp vốn, cứu trợ đột xuất sang đầu tư cho công tác dạy nghề, giới thiệu việc làm phù hợp cho lao động nữ, nhất là phụ nữ nghèo ở nông thôn. Hình thành một số mô hình liên kết sản xuất - kinh doanh tạo đầu ra cho công tác dạy nghề ở địa phương.

2. Đa dạng hóa các hình thức, giải pháp giúp hộ nghèo phù hợp với từng nhóm đối tượng (dân tộc, địa bàn cư trú, tập quán...) và phù hợp với hoàn cảnh, khả năng của từng hộ gia đình cụ thể. Muốn làm được điều này, cán bộ Hội cơ sở phải hết sức sâu sát địa bàn, đối tượng, có kế hoạch cụ thể đối với từng loại hộ nghèo do Hội giúp đỡ.

3. Biết tranh thủ, kết hợp nhiều nguồn lực từ Chính phủ và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để có điều kiện giúp cho hộ nghèo một cách toàn diện và bền vững. Hạn chế dần việc hỗ trợ mang tính dàn trải, manh mún, mang tính nhất thời, kém hiệu quả.

4. Cán bộ Hội, nhất là cơ sở phải nhiệt tình, tâm huyết, có đủ năng lực và điều kiện thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo. Giúp cho người nghèo thoát nghèo bền vững là một việc làm khó, lâu dài nên cán bộ Hội cần phải có cái tâm và không được nôn nóng, chạy theo thành tích. Mặt khác, cán bộ Hội phải có uy tín, kinh tế gia đình ổn định mới có điều kiện làm tốt công tác này.

5. Lồng ghép yếu tố giới vào các chính sách liên quan đến công tác xóa đói giảm nghèo, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện cần thiết để phụ nữ nói chung, phụ nữ nghèo nói riêng có cơ hội vươn tới bình đẳng về việc làm, thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Để làm tốt hơn nữa công tác chăm lo cho phụ nữ nghèo, trong thời gian tới, Hội Liên hiệp Phụ nữ An Giang tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ cụ thể sau:

Một là, tiếp tục nghiên cứu phát triển các hình thức dạy nghề, tạo việc làm cho lao động nữ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của địa phương. Liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để giới thiệu, tạo việc làm cho lao động nữ, nhất là các đối tượng phụ nữ nghèo, phụ nữ là người dân tộc, vùng sâu, vùng khó khăn. Mở rộng mô hình dạy nghề khép kín giúp giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nữ.

Hai là, tranh thủ các nguồn vốn ưu đãi trong nước và quốc tế để hỗ trợ cho phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, đồng thời, thực hiện tốt khâu giới thiệu đối tượng vay vốn, khâu quản lý vốn, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thất thoát để phát huy cao nhất hiệu quả đồng vốn. Đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các câu lạc bộ doanh nghiệp nữ, các tổ phụ nữ tiểu thương hiện có nhằm thiết thực hỗ trợ cho lao động nữ tại địa phương.

Ba là, tiếp tục đa dạng hóa ngành nghề thu hút lực lượng lao động tại chỗ, góp phần tạo công ăn việc làm cho các lao động nhàn rỗi, góp phần tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống. Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động an sinh xã hội thông qua các việc làm cụ thể, thiết thực; tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ Hội Phụ nữ làm công tác giảm nghèo.

Bốn là, tích cực thực hiện công tác kiểm tra, giám sát đối với các cấp, các ngành hoạt động trên nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục, việc phổ biến các Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo hành trong gia đình... tạo điều kiện thực hiện các chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em nhất là đối với trẻ em gái; tiếp tục kiến nghị về chính sách tiền lương cho phó chủ tịch Hội phụ nữ cấp xã nhằm động viên, khuyến khích, tạo động lực hoạt động để thực hiện nhiệm vụ ngày càng tốt hơn./.