TCCSĐT - Thanh Hoá là một trong 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thụ hưởng Chương trình của Đề án Kiểm soát dân số biển, đảo và ven biển do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2009. 7 trong tổng số 27 huyện, thị xã trong tỉnh là địa bàn biển, đảo gồm 201 xã diện tích khoảng 17.000 km2 . Chiều dài bờ biển của Thanh Hóa 102 km, có 7 cửa sông đổ ra biển và rất nhiều cảng cá, âu thuyền, vạn chài, khu công nghiệp mới. Biển Thanh Hóa có nhiều bãi ngang nên dân số tập trung khá đông, gồm 1.283.796/3.400.239 người trong toàn tỉnh.

Điều kiện tự nhiên môi trường biển nhiễm mặn, thiếu nước sạch; lao động vất vả với cường độ và thời gian cao nên tỷ lệ phụ nữ mắc các bệnh phụ khoa hiện nay cao. Một số mục tiêu của Đề án cần thực hiện theo kế hoạch đối với Thanh Hóa đang là những thách thức cần phải nỗ lực mới có thể đạt được trong những năm tới. Chẳng hạn: số phụ nữ mắc bệnh phụ khoa cần được điều trị theo kế hoạch phải đạt 72,57% vào năm 2010; 81,57% (năm 2015) và 96,14% (năm 2020) thì Thanh Hóa mới đáp ứng được khoảng 64,57% .

Về kế hoạch giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên đặt ra năm 2010 phải giảm còn 14,24%; đến năm 2015 là 10,15% và năm 2020 là 8,21%. Hiện Thanh Hóa đang có tỉ lệ sinh con thứ ba trở lên ở vùng biển là 15,31%. Về giảm tỷ suất sinh thô (CBR) vào năm 2010 là 15,5%o; đến năm 2015 là 13,37%o; và đến năm 2020 là 10,84%o thì ở Thanh Hóa đang ở mức 16%o. Trên địa bàn 7 đơn vị tại 201 xã vùng biển và ven biển đến nay mới có 119 bác sỹ, đạt tỷ lệ 59% là chỉ số thấp so với mặt bằng chung của cả nước; ngoài ra mới có 150/201 nữ hộ sinh trung học và y sỹ, y tá tại tuyến cơ sở cũng là con số quá thấp. Đây là khó khăn không nhỏ không chỉ cho chương trình mục tiêu dân số - kế hoạch hóa gia đình mà còn cho cả mục tiêu đặt ra của Đề án kiểm soát dân số biển, đảo và ven biển trong những năm tới.

Thời gian vừa qua, Thanh Hóa triển khai thực hiện Đề án theo phương châm là ở cấp tỉnh tập trung chỉ đạo, giám sát kiểm tra và tăng cường hỗ trợ các huyện khi có yêu cầu. Đội lưu động tuyến tỉnh khi cần sẽ được tăng cường, bệnh viện Đa khoa tuyến tỉnh, bệnh viện Phụ sản và bệnh viện Nhi chuẩn bị kỹ phương án khi có bệnh nhân tuyến dưới chuyển lên. Cấp huyện phối hợp điều hành kế hoạch và cấp xã là cấp tổ chức thực hiện. Trước mắt, năm 2009-2010 tỉnh đang nỗ lực tập trung thực hiện kế hoạch tại 52 xã bãi ngang ven biển vì đây là những xã còn rất nhiều khó khăn trở ngại. Đề án đã đi trúng và đúng yêu cầu đặt ra ở cơ sở của cư dân vùng biển nên hiệu quả và các hiệu ứng xã hội rất cao. Công tác tuyên truyền vận động, khảo sát nắm dữ liệu được đặt lên hàng đầu, tổ chức rà soát thông tin tới hộ gia đình. Nơi tập trung đông dân cư đặc biệt là khu vực có đông người nhập cư như cảng cá, âu thuyền và các khu công nghiệp được chú trọng cao hơn. Ban quản lý Đề án cấp tỉnh đã chỉ đạo các Đội dịch vụ lưu động tập trung tuyên truyền, tư vấn đáp ứng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình tại các khu vực này có kết quả cao.

Qua gần hai năm (2009- 2010), các Đội dịch vụ lưu động huyện tổ chức 251 đợt tuyên truyền, tư vấn, khám thai tại 52 xã trọng điểm. Số lượt phụ nữ được khám phụ khoa là 84.544 người, trong đó 15.050 người phát hiện mắc bệnh viêm nhiễm đường sinh sản và được cấp thuốc điều trị. 8.390 phụ nữ mang thai được khám thai, tiêm phòng uốn ván và cấp viên sắt miễn phí; số trẻ em được khám sức khoẻ là 6.352. Hơn 500 đối tượng được tổ chức xét nghiệm và phát hiện virut viêm gan B, tổ chức khám kiểm tra sức khỏe cho hơn 4.000 đối tượng đang làm ăn và sinh sống trong vùng có nguy cơ cao tại các xã ven biển. Cấp phát và tư vấn miễn phí cho hơn 2.700 đối tượng sử dụng các phương tiện tránh thai phi lâm sàng (bao cao su, thuốc uống hoặc tiêm tránh thai).

Bước đầu, Đề án kiểm soát và nâng cao chất lượng dân số đã mang lại những tín hiệu đáng mừng với sự tham gia hưởng ứng của các cấp , các ngành và người dân. Đề án có lộ trình thực hiện từ 2009 đến 2020, một khoảng thời gian khá dài với mong muốn sẽ nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân vùng biển, đảo trong cơ cấu dân số chung của đất nước. Để thực hiện thành công mục tiêu đặt ra, Đề án rất cần sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, ngành, đoàn thể, để mang lại lợi ích thiết thực cho người dân vùng biển, đảo./.