Nhân kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930 - 03-02-2015), Tạp chí Cộng sản điện tử trân trọng giới thiệu bài viết “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” của Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03-02-1930. “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”(1).

85 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại. Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lãnh đạo cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh” chống thực dân Pháp xâm lược, lập nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Lãnh đạo cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, mà đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX”(2).

Đảng lãnh đạo Nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đổi mới toàn diện đất nước, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới, đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Thực tế lịch sử 85 năm qua khẳng định, với trí tuệ, bản lĩnh và nghị lực; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho Nhân dân, cho dân tộc; bằng sự hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức mạnh mẽ, đoàn kết và mối liên hệ máu thịt với Nhân dân, được Nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng quyết định sự lớn mạnh và trưởng thành của Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Thấm nhuần nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Trong cuộc đấu tranh giành, giữ chính quyền và kháng chiến chống xâm lược, khi nhận thấy trong Đảng xuất hiện những dấu hiệu không đoàn kết, thống nhất; tư tưởng, lập trường của cán bộ, đảng viên không vững vàng, vi phạm kỷ luật Đảng; chủ nghĩa cơ hội, xét lại xuất hiện…, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở cuộc vận động chỉnh Đảng, bao gồm chấn chỉnh cán bộ và chỉnh huấn đảng viên.

Tác phẩm Tự chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã chỉ đạo triển khai cuộc đấu tranh tự phê bình và phê bình; nghiêm khắc lên án, chỉ trích những khuynh hướng cô độc hẹp hòi và khuynh hướng hữu khuynh thỏa hiệp, nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng, tăng cường quan hệ máu thịt với Nhân dân, đồng thời tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Qua đó, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh; củng cố lập trường chính trị cho cán bộ, đảng viên; sửa chữa bệnh xa rời quần chúng, mệnh lệnh, quan liêu và tham ô, lãng phí; nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật trong Đảng. Nhờ vậy, đã hun đúc được ý chí, nghị lực, tạo nên sức mạnh vô địch, quyết tâm đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây cũng như tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, khiến cho một số cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trước thực trạng đó, Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) đã ban hành Nghị quyết Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng (ngày 29-6-1992). Tiếp đó, tháng 11-1999, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Trung ương Đảng chủ trương: “Thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, ngăn chặn và khắc phục tệ vô tổ chức, vô kỷ luật, độc đoán chuyên quyền trong Đảng”(3). Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”.

Mặc dù đã có nghị quyết riêng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng song trong Đảng vẫn còn những khuyết điểm nghiêm trọng, kéo dài, chậm được khắc phục, với những diễn biến phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; làm suy giảm vị trí, vai trò, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã thảo luận và ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay (ngày 16-01-2012) . Nghị quyết đã chỉ rõ, vấn đề cấp bách nhất hiện nay là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện như: phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy viện, vô nguyên tắc..., không ít tổ chức cơ sở Đảng buông lỏng nguyên tắc sinh hoạt và kỷ luật Đảng, giảm sút sức chiến đấu... Chỉ ra các giải pháp khắc phục tình trạng đó: Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị.

Quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) (khóa VIII), đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng từng bước được nâng lên; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững; niềm tin của Nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt.

Tuy nhiên, trong những năm sắp tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có những thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng rất nhiều phức tạp, khó khăn, thách thức, đặt ra cho Đảng ta nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Trong đó, bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt trầm trọng hơn. Nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế” đang là thách thức lớn đối với đất nước; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang gây bất bình và làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta, hòng hạ thấp uy tín và phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bối cảnh đó, đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, giữ vững bản chất cách mạng, vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống nhất cao về ý chí, hành động, siết chặt đội ngũ; thực sự trong sạch về đạo đức, lối sống; gắn bó máu thịt với nhân dân. Hơn bao giờ hết, công tác xây dựng Đảng trở thành một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn, quyết định vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, để xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và cả dân tộc, nâng cao năng lực lãnh đao, năng lực cầm quyền, Đảng ta cần thực hiện tốt những vấn đề sau:

Trước hết, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả. Kiên định đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam. Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển.

Hai là, tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, lý luận: Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu và hiệu quả của công tác tư tưởng. Đổi mới công tác tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tích cực chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chủ động, kịp thời ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.

Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề xuất hiện trong quá trình đổi mới, làm tốt chức năng định hướng cho hoạt động thực tiễn, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị và học tập nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả.

Ba là, tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên: Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; đổi mới nội dung, hình thức phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Kiện toàn tổ chức, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.

Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong gương mẫu, có trách nhiệm cao trong công tác, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; coi đây là việc làm thường xuyên của các tổ chức Đảng, các cấp chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi…

Bốn là, đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng: Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ. Chú trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế. Tăng thẩm quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật cho ủy ban kiểm tra các cấp.

Năm là, đổi mới nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân: Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ Đảng - Dân; tập hợp, vận động và phát huy sức mạnh của toàn dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận. Giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân. Tiếp tục cụ thể hoá mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, hưởng thụ”.

Sáu là, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí: Xác định nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là trách nhiệm và nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của các cấp ủy đảng, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị. Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí, không bao che, dung túng và không can thiệp, ngăn chặn việc chống tham nhũng, lãng phí. Từng bước hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Kiên quyết xử lý và thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ lợi ích nhóm, chống đặc quyền, đặc lợi.

Bảy là, đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng: Tiếp tục nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; phòng ngừa các nguy cơ đối với đảng cầm quyền. Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Tiếp tục làm rõ phương thức cầm quyền của Đảng phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vừa bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng.

Tiếp nối truyền thống lịch sử 85 năm vẻ vang của Đảng, bước vào thời kỳ mới, toàn thể cán bộ, đảng viên cần nỗ lực phấn đấu, kiên quyết đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, không ngừng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân./.

-----------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, T 10, tr. 8

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 5-6.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.52, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 196