TCCSĐT - Vùng biển Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ. Bên cạnh ý nghĩa chiến lược về quốc phòng an ninh, các đảo còn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế biển. Khai thác tiềm năng các đảo để phát triển kinh tế là một trong những biện pháp thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.

Chiến lược biển Việt Nam

Kinh tế đảo là một trong những bộ phận quan trọng của kinh tế biển nói chung. Phát triển kinh tế biển có vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp cho tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế. Ý thức rõ điều đó, trong những năm đổi mới, Ðảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách, biện pháp quan trọng nhằm quản lý, bảo vệ, khai thác biển.

Nghị quyết 03-NQ/TW ngày 06-5-1993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển khẳng định đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển; phấn đấu trở thành một nước mạnh về biển vào năm 2020. Ngày 22-9-1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xác định: “Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế biển hướng mạnh vào xuất khẩu, dựa trên những tiến bộ khoa học, công nghệ làm động lực; vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác tiềm năng biển có hiệu quả, vừa tái tạo tài nguyên biển, bảo vệ môi trường, đào tạo nhân lực”; “… tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm thăm dò dầu khí, khoáng sản biển, nguồn lợi hải sản và năng lượng biển, nghiên cứu và bảo vệ môi trường biển, tiếp tục hiện đại hoá khí tượng - thuỷ văn”. Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, một loạt kế hoạch về phát triển kinh tế biển đã được thông qua như: Chiến lược phát triển thuỷ sản 2010; Chiến lược phát triển du lịch 2010; Chiến lược phát triển giao thông vận tải 2010…

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) khẳng định mục tiêu: “Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km2 thềm lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển. Đẩy mạnh công tác nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển; mở mang du lịch; bảo vệ môi trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển”. Những nội dung nêu trên tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006).

Những quan điểm, biện pháp nêu trên tiếp tục nhấn mạnh chủ trương xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển, phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ đất nước, đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, nhận thức về vai trò, vị trí của biển, sự quan tâm phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển của một số cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành, cả Trung ương và địa phương vân còn những hạn chế. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cấp bách là Đảng và Nhà nước ta cần nâng các quan điểm chỉ đạo nêu trên lên tầm của một văn bản chiến lược. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã thông qua Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 09-02-2007). Quan điểm chỉ đạo của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là "nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn". Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển. Nhiệm vụ chiến lược kinh tế "làm giàu từ biển" được xác định: kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục khẳng định chủ trương: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị trí và tiềm năng biển nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển,… Phát triển kinh tế đảo phù hợp với tiềm năng và lợi thế của từng đảo.”

Những chủ trương, biện pháp nêu trên từng bước được cụ thể hóa trong các lĩnh vực kinh tế biển. Nhờ đó, các lĩnh vực kinh tế biển nước ta, trong đó có kinh tế đảo, đã có bước chuyển biến đáng kể và đạt được những kết quả quan trọng.

Kinh tế đảo - Vẫn còn ở dạng tiềm năng

Với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ phân bố tập trung ở vùng ven bờ và các quần đảo ngoài khơi, nước ta có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế hải đảo. Diện tích phần đất nổi của các đảo khoảng 1.636 km2, được phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam với những đảo, quần đảo nổi tiếng giàu, đẹp và vị trí chiến lược như Bạch Long Vĩ, Phú quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà, Hoàng Sa, Trường Sa... Mỗi đảo, quần đảo, bên cạnh các giá trị cảnh quan bề nổi còn có các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, đối với phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển. Ngoài ra, một số hòn đảo còn có lợi thế vị trí địa lý để phát triển dịch vụ cảng biển, hàng hải.

Cả nước có 12 huyện đảo, 53 xã đảo với khoảng 20 triệu người sống ở vùng ven bờ và 66 đảo có dân sinh sống với tổng số trên 240.000 người, mật độ dân số trung bình trên các đảo là 95 người/km. Khai thác biển, trong đó có các đảo để phát triển kinh tế là một định hướng mang tính chiến lược và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hải đảo của nước ta đa dạng, giàu tiềm năng, song thế mạnh của các hải đảo chưa được đặt đúng vị trí trong chiến lược phát triển của đất nước. Vì vậy, nhiều đảo có điều kiện để phát triển nhanh chưa được đầu tư đúng mức và toàn diện. Một số đảo có điều kiện phát triển kinh tế thì chưa được quy hoạch, thiếu nguồn vốn, thiếu lao động. Một số đảo tiền tiêu chưa có dân sinh sống, chưa có chính sách khuyến khích thích đáng những người lao động ra sinh sống ở tuyến đảo. Trình độ văn hoá, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nhiều đảo còn thấp kém, còn thiếu nhà trẻ, trường học, bệnh viện, nước ngọt, điện, phương tiện thông tin truyền hình, công cụ để sản xuất.

Trong nhiều năm qua, kinh tế hải đảo tiến triển một cách tự phát theo nhu cầu mưu sinh của người dân mà chưa có chiến lược rõ ràng. Người dân ra đảo “định cư” vì sinh kế, mang trong mình tâm lý “có cái gì khai thác cái đó”, dễ làm, khó bỏ, hiện tượng phá rừng trên đảo, khai thác hải sản quá mức…diễn ra phổ biến. Nguồn lợi hải sản bị cạn kiệt nhanh chóng. Số lượng loài hải sản có mức độ nguy cấp phải đưa vào Sách đỏ Việt Nam ngày càng tăng. Đời sống của người dân trên hầu hết các đảo vẫn nằm trong cái vòng luẩn quẩn: nhu cầu sinh kế - khai thác quá mức - cạn kiệt nguồn lợi - nghèo khó… Nghiên cứu của Viện Tài nguyên thế giới công bố năm 2002 cho thấy, 80% hệ sinh thái biển nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% là rủi ro cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng nêu trên, trong đó phải kể đến việc thiếu quy hoạch tổng thể cũng như các quy hoạch chi tiết về phát triển kinh tế - xã hội hải đảo. Vì thiếu quy hoạch, nên chưa có chính sách và biện pháp quản lý phù hợp. Việc áp dụng mô hình quản lý kinh tế - xã hội trong đất liền cho vùng hải đảo là không thật sự phù hợp, bởi vì kinh tế biển đảo có nhiều nét đặc thù. Hơn nữa, hệ thống đảo nước ta rất đa dạng về tiềm năng, nếu không tìm ra được tính đặc thù của từng hòn đảo thì khó có thể phát triển kinh tế hải đảo thành công.

Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế đảo

Khó khăn lớn nhất cản trở phát triển kinh tế đảo là thiếu nguồn cung cấp điện năng ổn định với giá cả phù hợp. Vì không có điện lưới quốc gia nên các nguồn cung cấp điện tại chỗ không ổn định và giá thành cao. Các phương án cấp điện độc lập có giá thành rất cao, gấp 2, gấp 3 lần giá điện trung bình trên đất liền. Giá điện cao ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của các loại dịch vụ trên đảo so với đất liền.

Thực hiện nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao, trong những năm qua, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã có nhiều nỗ lực đầu tư đưa điện lưới quốc gia ra các đảo. Cả nước hiện có 12 huyện đảo đều đã có điện lưới và điện tại chỗ; trong đó EVN đang quản lý và bán điện cho các huyện đảo Vân Đồn, Cô Tô (Quảng Ninh), Cát Hải (Hải Phòng), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) và Phú Quốc (Kiên Giang). Huyện đảo Kiên Hải (Kiên Giang) sẽ bàn giao việc quản lý hệ thống điện cho EVN quản lý vào cuối năm 2014 sau khi tập đoàn thực hiện xong việc đầu tư lưới điện ra đảo. Như vậy đến cuối năm 2014, EVN sẽ quản lý và bán điện cho 8/12 huyện đảo.

Đối với 8 huyện đảo đã có điện lưới, EVN bảo đảm cung cấp điện an toàn, liên tục, ổn định nhằm phát triển kinh tế - xã hội các huyện đảo. Đối với 4/12 huyện đảo còn lại do khoảng cách xa bờ trên 100 km nên giải pháp cấp điện bằng cáp ngầm rất khó khăn, tốn kém. Vì vậy, EVN chủ trương tăng cường thêm nguồn điện bằng việc sử dụng các nguồn hiện có và nghiên cứu thêm các nguồn điện mới từ năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Khi các huyện đảo được phủ sóng điện lưới quốc gia, tất yếu sẽ được hưởng giá điện như giá bán trong đất liền.

Bên cạnh khó khăn về cơ sở hạ tầng, một rào cản khác trong phát triển kinh tế đảo là nguồn nhân lực. Điều kiện sinh sống trên các đảo khó khăn nên đến nay, nhiều đảo vẫn chưa có người ở. Khắc phục tình trạng này, cần đặc biệt phát huy vai trò của Đoàn thanh niên. Các mô hình đảo thanh niên như ở Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ đã khẳng định sức sống, thấy rõ vai trò của Đoàn Thanh niên. Phát huy tinh thần xung kích đó, Trung ương đã Đoàn xác định trong Năm thanh niên tình nguyện 2014 xây dựng 5 đảo thanh niên.

Theo đó, sau khi Thủ tướng phê duyệt đề án quy hoạch xây dựng đảo thanh niên toàn quốc giai đoạn 2013-2020, Trung ương Đoàn sẽ tiến hành các phần việc xây dựng đảo thanh niên trên các đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), đảo Trần (Quảng Ninh), Hòn Chuối (Cà Mau), Thổ Chu (Kiên Giang), Cồn Cỏ (Quảng Trị).

Với sự đầu tư của Nhà nước, đặc biệt là đầu tư cơ sở hạ tầng, phát huy vai trò xung kích của thế hệ trẻ cũng như nỗ lực chung của các ngành, các cấp, ở nhiều hải đảo đã có bước phát triển mới, vai trò kinh tế của các đảo tăng lên rõ rệt và tạo ra một lĩnh vực kinh tế đảo đầy triển vọng. Kết cấu hạ tầng được cải thiện, hình thành hệ thống giao thông trên các đảo. Có nhiều đảo được quy hoạc phát triển thành những trung tâm kinh tế hướng biển như Vân Đồn, Cát Hải, Côn Đảo, Phú Quốc,... với những cơ chế khuyến khích đầu tư mạnh mẽ.

Bên cạnh việc đầu tư kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, để phát triển kinh tế hải đảo cần quan tâm xây dựng quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết về phát triển kinh tế hải đảo, từ đó đưa ra những chính sách và biện pháp quản lý phù hợp. Tiến hành xây dựng chiến lược phát triển kinh tế hải đảo gắn với an ninh quốc phòng. Đồng thời, cần có chính sách đặc thù cho từng đảo nhằm thu hút đầu tư, áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế biển trong đó có việc giải quyết nguồn nước ngọt, sử dụng các nguồn năng lượng gió, mặt trời..../.