Vấn đề đặt ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long

TS. Nguyễn Hữu Nguyên Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách quốc gia, Trường Đại học Khoa học xã hội nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
15:58, ngày 24-07-2014
TCCSĐT - Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được đề ra từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991). Quán triệt Nghị quyết của Đảng, đồng bằng sông Cửu Long đã nỗ lực tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hơn 20 năm qua. Nhờ vậy, bộ mặt kinh tế - xã hội của vùng thay đổi nhanh chóng, theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra về nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn.

Thành tựu ấn tượng và kỳ vọng trên con đường đổi mới

Các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, hiệu quả sản xuất được nâng cao, tổ chức huy động tốt các nguồn lực đầu tư, môi trường đầu tư được cải thiện trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI là nhờ quyết sách đúng đắn của Đảng lãnh đạo đất nước nói chung, với đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Thực tế đã minh chứng, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân toàn vùng giai đoạn 2001 - 2010 đạt 11,7%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng - dịch vụ, giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp - thủy sản. Đến năm 2010, tỷ trọng khu vực I chiếm 39% (10 năm trước là 53,5%), khu vực II chiếm 26% và khu vực III chiếm 35%. Nông - lâm - ngư nghiệp đã hình thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực lúa gạo, thủy sản, trái cây. Giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp tăng từ 56.292 tỷ đồng năm 2001 lên 101.000 tỷ đồng năm 2010, với tốc độ tăng trưởng bình quân 6,9%/năm; thu nhập trên mỗi héc-ta (ha) đất sản xuất nông nghiệp cũng tăng từ 20,2 triệu đồng lên 38 triệu đồng. Năng suất lúa lên đến 6,3 tấn/ha. Hằng năm, đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu trên 6 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch trên 3 tỷ USD, chiếm khoảng 90% kim ngạch xuất khẩu gạo cả nước. Hiện nay, đồng bằng sông Cửu Long có diện tích nuôi trồng thủy sản lên đến 736.400 ha (tăng 500.000 ha so với 10 năm trước), đã trở thành vùng nuôi và đánh bắt thủy, hải sản lớn nhất nước, chiếm 70% diện tích nuôi trồng và 58% sản lượng thủy sản cả nước.

Về công nghiệp, toàn vùng đạt giá trị 156 ngàn tỷ đồng, tăng bình quân 18,8%/năm. Trong đó, công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm chiếm 26%. Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hút nhiều dự án lớn đầu tư vào ngành công nghiệp khí, điện như Trung tâm khí điện - đạm Cà Mau, Trung tâm nhiệt điện Ô Môn (Cần Thơ), Nhà máy điện Duyên Hải (Trà Vinh), Nhà máy nhiệt điện Long Phú (Sóc Trăng), Trung tâm nhiệt điện sông Hậu (Hậu Giang), đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn. Kim ngạch xuất khẩu trong 10 năm qua tăng bình quân 17,8%/năm. Đến năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn vùng đạt hơn 6,8 tỷ USD, đã huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 627 ngàn tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước 139 ngàn tỷ đồng, còn lại 488 ngàn tỷ đồng từ vốn đầu tư của doanh nghiệp và vốn đầu tư xã hội…

Với những bước tiến vững chắc như thế, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng vào những bước tiến xa hơn rất nhiều của đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai như Nghị quyết của Chính phủ đề ra mục tiêu phát triển cho vùng: phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011 - 2020 đạt 12-13%; tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp trong GDP giảm xuống còn 32-30%, công nghiệp - xây dựng sẽ tăng lên 33-34%, thương mại dịch vụ đạt 35-36%. Để đạt mục tiêu này, đồng bằng sông Cửu Long rất cần được đầu tư phát triển mạnh nông nghiệp, kinh tế biển, tập trung đầu tư vùng kinh tế trọng điểm (gồm Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau); xây dựng Cần Thơ thành trung tâm của vùng; Phú Quốc thành đặc khu hành chính - kinh tế, trung tâm dịch vụ, du lịch của khu vực; xây dựng các khu, cụm công nghiệp tập trung, có chính sách thu hút, mời gọi đầu tư trong và ngoài nước. Đó là bức tranh tươi đẹp của tương lai, nhưng để những kỳ vọng ấy biến thành hiện thực, chúng ta cũng cần phải thẳng thắn nhìn nhận một số vấn đề đặt ra của ngày hôm nay.

Một số vấn đề đặt ra trong nhận thức luận

Về mặt lý luận, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long phải gắn liền với quan điểm phát triển bền vững của Đảng. Tuy nhiên, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa gắn với tính đặc thù của đồng bằng sông Cửu Long. Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đề ra có tính bao quát cho cả nước. Trong khi nước ta có thể được chia thành 6 vùng kinh tế - xã hội, 6 vùng phát triển công nghiệp, 8 vùng sinh thái nông nghiệp, 9 vùng sinh thái lâm nghiệp và 7 vùng an ninh - quốc phòng. Dù phân chia theo đặc điểm nào, đồng bằng sông Cửu Long luôn là một vùng đặc biệt vì có những đặc thù các vùng khác không có. Đó là vùng sinh thái ngập nước quý hiếm còn lại của hành tinh (chỉ đứng sau vùng Amazon của Nam Mỹ), chỉ thích hợp với cây lúa nước, cây ăn quả, rừng ngập mặn và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, hải sản. Hệ sinh thái này rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương bởi ô nhiễm môi trường. Thế nhưng, rất nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long coi nhẹ tính đặc thù này, nên đã phát triển công nghiệp khá tràn lan theo hướng tỉnh nào cũng lập nhiều khu công nghiệp, huyện nào cũng lập các cụm công nghiệp mà quên đi tiềm năng thiên nhiên ban tặng. Từ thực tế trên, có thể nói, do chưa nhận thức đúng mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với nông nghiệp ở vùng sinh thái đặc biệt, nên đồng bằng sông Cửu Long đã không chú trọng phát huy lợi thế so sánh để phát triển nông nghiệp - ngư nghiệp mà chạy theo lĩnh vực không phải là thế mạnh như công nghiệp.

Trong nhận thức về phát triển bền vững, chúng ta chưa xác định rõ yếu tố nền móng. Khái niệm “phát triển bền vững” tưởng như không còn gì phải bàn vì nhiều người cho rằng đã có định nghĩa “kinh điển” của thế giới. Nhưng đó mới là sự bền vững về bảo vệ môi trường. Khái niệm “phát triển bền vững” ngày nay rộng hơn, nên Việt Nam đã đưa ra công thức “Bốn trụ cột”: kinh tế - xã hội - môi trường - an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, nhận thức về mối quan hệ biện chứng của bốn trụ cột này lại chưa sâu sắc. Cụ thể, chưa định rõ yếu tố nào có vai trò quyết định và dường như mặc nhiên coi phát triển kinh tế là quan trọng nhất. Thực tế cho thấy, trong bốn trụ cột ấy, sự ổn định xã hội tạo ra tăng trưởng kinh tế chứ không phải kinh tế mạnh là tự nhiên có ổn định xã hội. Ở đồng bằng sông Cửu Long, giai cấp nông dân chiếm đại bộ phận trong dân cư, họ là chủ nhân lâu đời của vùng này, là lực lượng xã hội cơ bản của vùng. Họ đóng góp chính trong việc tạo ra hơn 50% lượng hải sản xuất khẩu, hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước, đưa Việt Nam lên hàng thứ 2 về xuất khẩu gạo trên thế giới. Thế nhưng đến nay nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn là thành phần “Thiệt thòi và yếu thế”. Nông dân thiệt thòi vì tình trạng “Được mùa mất giá, thua lỗ triền miên”, thực chất là bị ép giá nên lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp rơi vào tay các doanh nghiệp và thương lái nhiều hơn. Nông dân yếu thế vì tình trạng địa phương tiến hành “Thu hồi, giải tỏa” đất đai để phục vụ cho phát triển công nghiệp, dịch vụ nhưng được đền bù chưa thỏa đáng.

Từ thực tế đó, cần thay đổi tư duy về cấu trúc của mô hình phát triển bền vững. Cụ thể, xác định yếu tố quyết định cho phát triển bền vững phải là “Ổn định xã hội”, thực hiện công bằng xã hội để tạo lòng tin cho nhân dân đối với sự lãnh đạo và quản lý của chính quyền. Điều đó giống như “Gia cố cho nền móng” để tạo vững chắc cho các trụ cột khác phát triển.

Một số vấn đề đặt ra trong quản lý phát triển kinh tế - xã hội

Thứ nhất, phát triển công nghiệp, đô thị kém hiệu quả đã mang lại hậu quả khó khăn cho phát triển nông nghiệp - ngư nghiệp. Về phát triển công nghiệp, hiện nay toàn vùng có khoảng 200 khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Hầu hết các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đang trong tình trạng chưa lấp đầy, nhưng các địa phương vẫn lập thêm mới. Cụ thể như ở Đồng Tháp, khu công nghiệp Trần Quốc Toản còn nhiều đất bỏ hoang thì tỉnh tiếp tục đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ mở rộng diện tích khu công nghiệp lên 2.730 ha (trong đó xây mới bốn khu công nghiệp với tổng diện tích khoảng 1.750 ha)… Tại Long An, Tiền Giang, hàng ngàn héc-ta đất rừng phòng hộ ven biển Đông và sông Soài Rạp cũng bị phá bỏ để làm khu công nghiệp. Hầu như tất cả các huyện đều xin thành lập các cụm công nghiệp. Ngoài ra, còn có gần 30 dự án xây dựng cảng biển trên các tuyến sông lớn, phần lớn các dự án này đã tiến hành thu hồi, giải tỏa đất đai nhưng cảng thì chưa xây dựng do chờ đợi vốn đầu tư. Về phát triển đô thị, tính đến năm 2011 đã có 3 đô thị hạng 3 được nâng lên hạng 2 (Rạch giá, Vị Thanh, Sóc Trăng), các đô thị này đều bám theo trục quốc lộ hoặc sông lớn. Đồng bằng sông Cửu Long đã mở rộng và hình thành rất nhiều đô thị mới nhưng phát triển thiếu tính toán căn cơ, chỉ chạy theo số lượng. Cụ thể như Khu đô thị Nam Cần Thơ (quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ) rộng hơn 2.000 ha lớn nhất tại đồng bằng sông Cửu Long. Khu này có 26 chủ đầu tư đang thực hiện 30 dự án, tổng diện tích hơn 1.370 ha. Trong đó chỉ có 7 dự án đã cơ bản hoàn thành, các dự án còn lại đang chờ nhà đầu tư.

Sự phát triển công nghiệp và đô thị như vậy đã gây khó khăn cho nông nghiệp, nông thôn trên hai phương diện:

- Lãng phí đất canh tác và vốn đầu tư cho nông nghiệp. Sự mở rộng đô thị và các khu công nghiệp theo quy hoạch thì không chiếm quá nhiều đất nông nghiệp nhưng có một số địa phương lấy cả những khu đất “Bờ xôi, ruộng mật” để làm công nghiệp và dịch vụ. Nhiều địa phương cho biết một số dự án phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao đang bị bỏ ngỏ, chờ nhà đầu tư. Cụ thể như ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Tiền Giang, mỗi tỉnh đang quy hoạch hàng chục dự án với tổng số vốn lên tới 2.000 tỷ đồng vẫn đang chờ vốn.

- Gây ô nhiễm môi trường. Nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các đô thị ngày càng mở rộng hơn mà công nghệ xử lý ô nhiễm chưa được cải thiện đáng kể nên đã dẫn đến tình trạng mức độ ô nhiễm tăng nhanh. Đặc điểm ô nhiễm môi trường ở đồng bằng sông Cửu Long là rất khó kiểm soát vì nó lan tỏa rất nhanh theo hệ kênh, rạch chằng chịt. Ô nhiễm nguồn nước đã tác động tiêu cực đến nông nghiệp, ngư nghiệp và cả môi trường sống của người dân.

Thứ hai, thị trường nông sản không ổn định. Vì sao nông dân đồng bằng sông Cửu Long lại rơi vào tình cảnh “Được mùa mất giá, thua lỗ triền miên”? Câu hỏi đó nông dân không thể tự giải đáp. Bởi, họ không thể tự giao dịch với thị trường thế giới, cho nên việc tiêu thụ nông, thủy sản phải qua doanh nghiệp và thương lái. Tình trạng “Được mùa mất giá” có nhiều nguyên nhân, về khách quan một phần do quy luật cung cầu của thế giới, về chủ quan do cơ quan chức năng không dự báo chính xác nhu cầu và thời cơ của thị trường… nhưng nguyên nhân trực tiếp là do doanh nghiệp và thương lái ép giá để kiếm lợi nhuận cao. Tình trạng này kéo dài, không những gây thiệt hại lớn về kinh tế cho nông dân và Nhà nước mà còn tác động tiêu cực về chính trị - xã hội.

Thứ ba, mô hình “Liên kết bốn nhà” thiếu bình đẳng và kém hiệu quả. Xét từ góc độ vị thế xã hội thì cơ cấu “Liên kết bốn nhà” ví như một “Tứ giác lệch”: Nhà nước là cạnh trên, dài nhất do có quyền sở hữu đất đai song cần có luật, cơ chế chính sách về đất đai ưu tiên cho nông dân được thuận tiện, an tâm sản xuất phát triển nông nghiệp bền vững; Nhà kinh doanh là một cạnh bên, dài thứ hai do có sức mạnh tài chính; Nhà khoa học cũng là một cạnh bên, nhưng ngắn hơn bởi chỉ có kiến thức khoa học; Nhà nông là cạnh đáy, ngắn nhất vì chỉ có quyền sử dụng đất. Như vậy, mối quan hệ giữa Nhà nước với ba nhà kia là quan hệ quyền lực quản lý chứ không phải quan hệ “liên kết”. Mô hình này phản ánh tính chất không bình đẳng về vị thế xã hội nên rất hạn chế hiệu quả mà còn dễ phát sinh mâu thuẫn quyền lợi, biểu hiện rất rõ ở hai trường hợp:

- Thu hồi, đền bù, giải tỏa đất đai, chính quyền và doanh nghiệp là bên “mua” nhưng lại nắm quyền định giá. Khi nhận được đất, doanh nghiệp triển khai dự án hoặc xây dựng hạ tầng tối thiểu, rồi bán lại với giá cao hơn hàng chục, thậm chí hàng trăm lần giá đền bù. Khoản “Siêu lợi nhuận” ấy phần lớn nông dân không được hưởng. Đó là nguyên nhân xung đột quyền lợi của nông dân.

- Tình trạng “Được mùa mất giá, thua lỗ triền miên” là do nông dân không có thông tin thị trường nên bị doanh nghiệp “ép giá”.

Những mâu thuẫn trên dễ làm phá vỡ hoặc triệt tiêu hiệu quả của mô hình “Liên kết bốn nhà”. Nếu mục đích của “Liên kết bốn nhà” là để phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới thì trong cơ chế liên kết phải đặt nhà nông ở vị trí trung tâm lợi ích của nông dân phải đi trước một bước. Điều này rất dễ hiểu, bởi, nếu nông dân làm ra nhiều nông sản thì doanh nghiệp mới có đủ nguồn hàng xuất khẩu với giá cạnh tranh và khi nhà nông khá giả hơn thì xã hội cũng ổn định hơn. Đó chính là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Một số vần đề đặt ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nêu trên ở đồng bằng sông Cửu Long chưa phải là tất cả mà còn rất nhiều vần đề khác không kém phần quan trọng như giáo dục - đào tạo, chính quyền cơ sở, phân tầng xã hội, biến đổi khí hậu… cũng cần phải đổi mới, có chiến lược phát triển thực sự bền vững cho đồng bằng sông Cửu Long phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của mình./.